Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmTổng nhiếp Mật tông - Thiền Tông - Tịnh Độ Tông

KHÚC XUÂN MUÔN THUỞ

 


Người hành giả tu theo pháp môn Mật chú thiền quán, hay thiền quán mật chú phải đủ tam mật gia trì. Khẩu miệng niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Tay ( thân) kiết ấn, Ý mật dùng tâm ý của mình duyên theo âm thanh, duyên theo năng lực của mật chú. Người hành giả trì mật chú niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm tai của mình nghe Om Ma Ni Padme Hum hoặc nghe thấy Úm Lam ( Om Ram).

Khi người hành giả trì niệm phải luôn nghe thấy thật rõ ràng từng âm lực của mật chú, hơi thở phải nhẹ nhàng điều hòa, người hành giả huân tập như vậy một thời gian sau tâm của họ sẽ biểu hiện thể hiện lên ngay trong tâm ý. Họ sẽ lần lượt biết mình đang trì niệm những âm lực của mật chú từ thô đến nhỏ nhiệm dần, rồi đến những ý niệm vi tế mang âm ngữ lực của mật chú. Và một lúc nào đó cũng nơi tâm ý đó nó sẽ chuyển hóa qua nhiều hình thức, nhiều chi tiết khác nhau. Có thể trong đó họ sẽ thấy những hạt sáng từ một đến nhiều hạt . Có lúc họ thấy một hạt đó hình như đang niệm niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.

Mới ban đầu chúng ta có ý niệm nghi là một hạt đó đang niệm mật chú, nếu người hành giả đó tiếp tục nghĩ tạo tác hay phân biệt đủ điều ở đó, thì ý niệm cảnh tướng đó sẽ bị mất đi hay mờ đi , vì tâm niệm như vậy là chúng ta đặt nền tảng tu học của mình trên sự vọng tưởng. Ngay nơi đó hãy thoải mái nhẹ nhàng thấy nghe nó thôi, chỉ bấy nhiêu đó thôi ngay nơi sự lý trên. Khi chúng ta thoải mái nhẹ nhàng nó cũng giống như chúng ta đang từ từ nuôi dưỡng ôm ấp nó, nó sẽ sáng lên và ngay nơi đó âm ngữ lực sẽ vang lên thật rõ vi tế hơn. Ngay đây người hành giả phải biết nghe cho rõ mật chú vang lên từng âm từng chữ, phải tỉnh thức để nghe thấy, nghe thấy như vậy là chánh niệm, chánh niệm biểu hiện lên.

Ngay nơi đây đôi khi, đa số hành giả cho rằng là mình đang biết và hành giả tưởng rằng mình đang thể hiện tự tánh. Nếu nghĩ như vậy là không đúng. Vì tất cả khi chúng ta quán theo phật lý thì đều không tướng luôn luôn chuyển hóa ( vô thường), vô ngã không có một chủ thể nào cả, nó luôn biểu hiện rồi ẩn tàng. Chúng ta đang sống đây là đang sở hữu hay nói đúng hơn là do tất cả các pháp , tất cả ý niệm kinh nghiệm nhiều đời nhiều kiếp của tất cả chúng sinh chứ thật tế không phải là chính mình, có mình, có người, có chúng sinh, có thọ giả…Khi chúng ta biết như vậy tức là ý căn đang quán pháp trần, ý căn lấy pháp trần là các pháp để ngay đó ý thức sẽ thể hiện biểu hiện ra. Khi có động tác ý niệm, ý căn chạm vào pháp trần liền ngay đó sinh thức. Nếu ý thức chúng ta có sự huân tập rõ về sự lý trên pháp ấn không – vô thường, vô ngã – Trung đạo thì đó là chánh niệm.

Chánh niệm này là ánh sáng để quán soi các pháp như ánh sáng của mặt trời. Ánh sáng mặt trời soi sáng bóng tối, lạnh lẽo…đem lại sự ấm áp, trong sáng. Chánh niệm cũng vậy, khi có chánh niệm ( mắt nhãn) thấy sắc liền biết ngay đó là không ( sự giả hợp) nhiều pháp, nhiều ý niệm, nhiều tướng…không có chủ thể tướng nhất định. Thấy như vậy thì người hành giả tỉnh giác sẽ biểu hiện rõ đó không phải là ta “ cái biết không phải là ta – mình”. Khi tai người hành giả đó nghe cũng vậy, âm thanh đó cũng do nhiều tướng âm thanh, nhiều điện năng rung động, chấn động, nhiều chi tiết khác nhau giả hợp thành âm ngữ, âm thanh….Đã giả hợp như vậy thì ngay nơi đó người hành giả biết chánh niệm là “Nghe không phải là mình”. Khi thân cảm thọ cũng vậy, người hành giả sẽ thấy biết sự giả hợp do nhiều yếu tố điện năng chấn động rung động ma xát nóng lạnh, tình thức kết hợp lại cho nên sự thọ trên cũng không phải là mình “ Thọ không phải là mình”. Người hành giả phải biết tất cả các pháp qua pháp ấn không, vô ngã, trung đạo. Người hành giả nên quán sâu vào sự giả hợp đó, sẽ thấy “ cái thấy biết đó cũng không phải là mình”, rồi cái không không, chẳng không, chẳng có, chẳng không không cũng không phải là mình. Qua những chi tiết trên chúng ta sẽ thấy ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm cái này hình thành nên cái thân giả hợp của mình. Chúng ta khó thoát ly ra khỏi cái thân ngũ ấm này. Thoát ra khỏi hay không thoát ra khỏi thật sự trên giáo lý giải thoát của Đức Phật không có sự thoát, không thoát. Cũng như những ý niệm trên ta biết tất cả đều là không ( cái không này là do nhiều chi tiết giả hợp). Do sự giả hợp của nhiều chi tiết, thì chúng sẽ liên tục chuyển hóa theo duyên, có duyên thì biểu hiện, không duyên thì ẩn tàng. Thật tế chúng cũng không mất cũng không sinh.

Ở đây không sinh chúng ta sẽ thấy những pháp vạn ý niệm , chúng ta có sẵn tất cả. Khi chúng ta tác ý chúng sẽ biểu hiện. Sự biểu hiện và ẩn tàng đó ở nhiều khóa cạnh, nhiều người, nhiều chúng sinh. Cho nên chúng luôn lúc nào cũng có những chuỗi trùng theo duyên thể hiện biểu hiện, trùng theo duyên để ẩn tàng hình thành như vậy ở nhiều đơn vị loài người, chư thiên, chúng sinh nên tất cả có vô lượng sự móc xích dính liền với nhau, nhiều chuỗi thuận nghịch chúng trùng lên nhau. Cho nên kinh Hoa nghiêm nói lý sự trùng trùng duyên khởi. Nếu chúng ta quán thấy vạn pháp như vậy thì trên thế gian này trong 3 cõi; dục, sắc, vô sắc giới không có một pháp nào là có biểu hiện và cũng không có một pháp nào là không ẩn tàng. Chúng như vậy thì không có sự sanh cũng không có sự diệt. Vì tất cả chúng đều có sẵn, nếu đã có sẵn thì không gọi là sanh được. Chúng chỉ khi có duyên đủ thì chúng biểu hiện. Cũng như que diêm, ngay nơi que diêm đó chúng đã có lửa sẵn, chỉ cần bàn tay, không khí, sự chuyển động ma xát… chúng sẽ biểu hiện lên. Và nếu nói nó sinh ra, thì phải sinh từ cái không ra cái có. Vậy trước khi lửa sanh ra theo ý trên thì chúng ở đâu. Nếu ở bàn tay thì đâu cần diêm quẹt, đâu cần dưỡng khí, đâu cần sự ma xát. Cũng như vậy chúng ta sẽ thấy chúng từ những nơi khác mà ta thấy thì không có. Nếu không có sanh thì không có diệt, và nếu nói rằng nó không có thì cũng không xong. Nói cái duyên trên để sanh ra lửa, lửa từ cái duyên tay, duyên que diêm, dưỡng khí, chấn động, ma xát…Tất cả những duyên đó cũng không phải là lửa, vì một pháp như que diêm nếu nó là lửa có tướng thật sự thì đâu cần bàn tay và các duyên khác kết hợp để có lửa. Như vậy trước lửa, và lửa cũng không có tướng nhất định. Và để tiếp tục quán tiếp nữa chúng ta sẽ thấy ngay chỗ phi duyên, nếu không có duyên nhất định để sanh ra lửa thì ngay chỗ que diêm, bàn tay, dưỡng khí…mỗi cái đều có lửa ở đó. Chúng kết hợp lại mới có lửa ,còn riêng que diêm không có tướng lửa thật sự. Phải nhớ đến các duyên kết hợp lại như vậy phi duyên cũng không có. Nhưng trên tinh thần kinh Hoa nghiêm thì ở nước cũng có lửa. Khi củi, que diêm cháy từng lúc nó chuyển hóa trong đó thán khí, nguyên tố của nước phân tử, nguyên tử điện chuyển động bốc hơi lên trên làm mây, mây thành mưa, những hạt mưa rớt xuống làm cho cây cối mọc lên, đem cây đốt thành lửa, lửa đốt cây, hơi nước trong cây bốc lên những nguyên tố, nguyên tử điện năng phân tử chuyển động thành sự chấn động tạo nên gió, thán khí, hơi nước trong cây bốc ra không gian tạp thành khí, người hít vào đưa vào máu nuôi dưỡng cơ thể, thở ra mang hơi đến cây cỏ người khác, chúng sinh con vật… Nhiều sự chuyển hóa như vậy. Tất cả chúng đều có lửa, khi đầy đủ duyên biểu hiện, không lửa khi ẩn tàng. Gió, đất, nước cũng vậy trùng trùng duyên khởi với nhau. Người hành giả tu thiền quán mật chú Chuẩn đề họ sẽ thể hiện lên biểu hiện lên trong từ cơ duyên của vạn pháp để nghe thấy ngay nơi đó niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Đây là biểu hiện ẩn tàng của vạn pháp.

Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni Padme Hum

 

Cư sĩ Thanh Hùng

Pháp hiệu: TC Trí

Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

COMMENTS

WORDPRESS: 3
  • comment-avatar

    Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…

  • comment-avatar

    Thưa Thầy qua bài Pháp như con đang hiểu được một khía cạnh rằng hàng ngày khi con người hành giả đang huân tập tu học thiền quán Mật Chú thấy các sự việc đang diễn ra xung quanh mình, con được nghe Thầy giảng nhiều bài Pháp đến gần đây con mới để ý hơn rằng những việc đang tiếp diễn đang biểu biện xung quanh ví dụ như sắp tới sẽ đi đâu làm gì, gặp ai, khung cảnh sự việc đang diễn ra đó người hành giả cần tỉnh giác trì niệm và quán xét thấy đó là duyên hợp từ người A người B cùng không gian thời gian, khung cảnh này cùng mục đích này tạo thành sự duyên hợp là đang diễn ra cùng ở một thời điểm. Khi đó trong cái thấy biết của tri giác người hành giả tiếp tục quán xoi cái đang thấy này không phải là mình, cái đang nghe âm thanh xung quanh này không phải là mình, cái đang biết sự động chuyển duyên hợp này đang diễn ra bằng những yếu tố trên, cái biết này không phải là mình và có cái biết đang biết các tình huống sự kiện đang tiếp nối kết nối diễn ra đó lấy cái biết đó làm tâm của mình. Nhưng ở ngay chỗ cái biết chân thật của Phật Tánh là thần chú Chuẩn Đề Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. 

    Qua đây con thấy khúc mắc trong tâm mình, bài Pháp trước cùng bài Pháp trên Thầy đều răn dạy người hành giả cần quán những sự kiện, hình ảnh, vọng niệm hay tỉnh thức đang diễn ra trong tâm khi đang ngồi thiền trì niệm và trong đi đứng nằm ngồi trong mỗi sự việc cảnh tượng trước mắt ngoại cảnh, hay trong tâm đang diễn ra người hành giả đều cần phải biết đó là sự duyên hợp của các Pháp, trước mỗi hành trạng tâm thức trước mỗi ý niệm loé lên người hành giả đều cầy nhạy bén tỉnh giác quán xét được ngay tâm thức, cần quán soi lại xem để hình thành duyên hợp những ý này là nguyên nhân do đâu mà hình thành và cần phải thấy được tướng giả hợp của nó, như vậy mới là tỉnh giác, mới là tu thiền quán phải không ạ, con xin Thầy chỉ bảo thêm giúp con, vì cùng với những việc đang diễn ra hàng ngày con thấy biết bằng mắt bằng tai bằng cảm thọ cùng niệm chú hoặc có lúc không niệm con thấy những cái đó bằng cái nhìn thấy biết phàm phu chưa phải là thiền quán như Thầy dạy.

    • comment-avatar
      Tâm Mật QT 4 năm ago

      Nơi đó cái không biết….có nghe gió thoảng.