MỘT DÒNG SÔNG THỨC – NGƯỜI ĐÀN BÀ BỊ XE CÁN CHẾT
Vùng đất quê tôi nơi sản sinh ra rất nhiều loại hoa trái không ai không biết đến Bến Tre là nơi xứ Dừa, nó trải mình trên hai dải cù lao Bảo và cù lao Minh xung quanh được bao bọc bởi chi chít những dòng sông lớn nhỏ. Chúng đem lại cho xứ này nguồn nước mát giúp nuôi sống những vườn cây trái, ruộng vườn tươi xanh tốt tướng. Màu xanh ươm dày đặc của hàng cau, hàng dừa càng làm cho không khí nơi này đã tươi lại còn tươi hơn.
Vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp mộc mạc của những con thuyền hòa quyện với cây cỏ, không khí làm cho Bến tre trở thành một địa danh đi vào lòng người với những ai một lần đặt chân đến.
Tôi đã sống và lớn lên ở nơi này. Nhìn ngắm không ít về nó. Với thời gian Bến tre đã mất đi rất nhiều cái vẻ nên thơ của nó bởi sự tàn phá của chiến tranh.
Sông Hằng Ấn Độ
Trong cái thời chiến ấy, khi bom đạn ập đến, từng đoàn người di tản để lại nơi này những nổi buồn trĩu nặng. Hàng dừa, hàng cau, cây cỏ hoa lá cũng úa nát tàn phai. Có phải chăng vì sự tàn phá của chiến tranh hay vì cảm nhận một sự bi thương nào đó? Một trong những hình ảnh bi thương ấy là hình ảnh của một người đàn bà sắp bước lên thiên chức trở thành người mẹ mà tôi đã nhìn thấy trong siêu hình và cũng là một hình ảnh bi thương hiện thực đã xảy ra trong thời chiến ấy.
Đi trong đoàn người di tản, người phụ nữ ấy đôi phút chần chừ suy nghĩ cho số phận của mình, không biết sẽ đi đâu về đâu trong cái thời cuộc binh đao. Bất chợt một chiếc xe hơi lạc tay lái đã cướp đi mạng sống của bà và đứa con trong bụng. Cái chết đến với bà ta thật tức tưởi và oan ức. Tiếng than khóc của những người xung quanh đã làm chấn động đến tất cả những vi trần, nghiệp thức của thế gian, tạo thành cộng nghiệp oan ức. Chúng trôi lăn theo thời gian miên viễn và hình thành những tập khí âm u. Chúng bay đi và trôi lăn mang theo những tiếng kêu cứu, khóc than thảm sầu. Chúng ma sát với nhau trong không gian hình thành lên những tiếng hú và rồi hình thành nên những phẩm vị tinh, quỉ, ma chập chờn trong không gian. Cõi ấy đã ra đời…
Câu chuyện về cái chết bi thương của người đàn bà đó xảy ra vào năm 1971. Thời gian không dừng trụ, trong cõi âm u ấy, người đàn bà cũng đã khai hoa nở nhụy. Đứa con trong bụng cũng đã chào đời. Vì mọi người xung quanh đây và những người đi mua bán ở phiên chợ đêm thường nhìn thấy ẩn hiện đêm đêm một người đàn bà xõa tóc, ôm con ngồi khóc. Và người phụ nữ đó mang hình tướng của một người bị xe cán chết.
Rồi dần dần, theo năm tháng, người ta lại nhìn thấy đứa con ấy lớn lên và là một đứa con trai. Thân tướng của người mẹ cũng đổi khác. Đã mặc sang màu áo trắng tinh và thân tướng cao lớn hơn. Họ thường ẩn hiện vào những đêm có trăng khuya.
Câu chuyện lan truyền miệng về người đàn bà này càng lúc càng nhiều. Người dân ở đây đã lập một cái miếu thờ cho linh hồn của người đàn bà đó. Từ đó có rất nhiều chuyện linh thiêng đã xảy ra khiến người ta tin tưởng nên những sinh họat trong xã hội: đôi chối, nghi kỵ, mâu thuẫn lẫn nhau cũng dẫn đến nơi này thề thốt.
Những câu chuyện đó cứ mãi nhân lên theo năm tháng. Đến thời điểm năm 1979, trong những đêm thanh vắng người ta thường nghe rất nhiều tiếng hú rùn rợn vang lên từ nơi đó.
Một hôm, vào ngày 14 tháng 4 năm 1979 âm lịch, tôi cùng hai người bạn nữa đi chơi về và đi ngang qua cây Dầu. Cây dầu đó rất lớn và nó có hàng trăm năm lịch sử mang theo nhiều điều huyền bí ẩn sâu. Ba chúng tôi đi trong đêm thanh vắng, hàn huyên tâm sự, vì chúng tôi là bạn học thời phổ thông với nhau, lâu lắm mới có dịp gặp mặt. Vài ba chén rượu lai rai tâm tình nên cũng có chút ít men rượu trong người.
Chúng tôi mãi mê nói chuyện, đi ngang qua cây Dầu lúc nào cũng không hay. Bất chợt ba chúng tôi nghe một tiếng hú thật rùng rợn. Tôi đã sống trong thế giới này mấy mươi năm và cũng đã chứng kiến biết bao nhiêu chuyện siêu hình, huyền bí mà chưa bao giờ tôi nghe một âm thanh nào kinh khủng đến như vậy. Âm thanh ấy thật đáng sợ, nghe mà lạnh toát cả người. Trời lạnh mà mồ hôi của ba đứa chúng tôi ở đâu cứ ào ào tuôn ra. Chân dường như cứng lại. Hai người bạn kia không đi nổi nữa. Phần tôi thì cố tỉnh lại, miệng niệm liên tục thần chú và tay bắt Kim cang ấn. Tôi cố gắng quay đầu lại nhìn từ phía sau. Từ chỗ chúng tôi đang đứng đến chỗ cây Dầu là khoảng 300 mét, tôi nhìn thấy một người đàn bà mặt đồ trắng to lớn. Đó là người đàn bà bị xe cán ngày mà người ta hay đồn đại. Nhưng sao hôm nay, thân thể của người đàn bà ấy cao lớn quá chừng. Tôi tự nói trong tâm mình: “Chắc chết, chắc chết”.
Đột nhiên lúc đó trong lòng tôi, cảm giác ấm áp từ nơi nào đó mang về. Tôi liên tục niệm Phật và Thần chú Chuẩn Đề thật rõ và vững tâm. Rồi từ từ lấy lại bình tỉnh và dìu hai người bạn của tôi đi về trong cái đêm tối lạnh lùng ấy.
Hai người bạn tôi tinh thần, trạng thái hoàn toàn tê liệt, thất kinh hồn vía. Về đến nhà hồi lâu họ mới tỉnh trí lại.Từ đó về sau, tôi thật sự thấy sự niệm trì danh hiệu Phật và Thần chú Chuẩn Đề rất thiết thực. Tôi đã rất siêng năng trì niệm hằng đêm.
Trải qua một thời gian rất lâu, vào năm 2006, tôi hay lui tới ngôi chùa Phước tự gần nhà để thắp nhang đèn vì thấy mọi người ít tới lui ngôi chùa này (Ngôi chùa này đã bị bỏ hoang từ lâu. Khi giáo hội được thành lập đã đưa một vị tăng Đại Đức về đó làm trụ trì. Ngôi chùa bị bỏ hoang nhiều năm nên đã bị suy sụp hư hại rất nhiều và rất lạnh lẽo. Đã được sửa chữa nhưng chỉ tạm thời).
Khi tôi đến đây đi kinh hành trì chú và đốt nhang được khoảng ba ngày, vào ngày thứ 4, khoảng 6h chiều tối, trời đã sụp tối, tôi vừa đi kinh hành được hai vòng. Khi đi vòng thứ ba vừa đến cửa chùa thì nhìn thấy linh ảnh một người đàn bà mặc quần áo trắng. Thân tướng cao to khoảng mười mấy mét. Hai mắt phực ra luồng ánh sáng màu xanh lạnh lẽo. Người đó nói: “Nơi đây là chỗ ở của ta. Cớ sao lại đây phá phách, gây xáo trộn sự sống của ta. Nay ta đã thành Tinh vị. Nếu như không chịu rời khỏi nơi này ta sẽ đánh chết ngay”.
Tôi nghe và thấy như vậy trong lòng cũng không sợ sệt gì cả và nghĩ: “Người đàn bà này nay đã thành Tinh rồi. Tiếng hú rùng rợn đã gặp năm nào cũng là bà ta. Sao cứ gặp bà Tinh này hoài vậy?” Nghĩ như vậy rồi tôi lại nói với bà ta bằng giọng rất cương quyết: “Chuyện làm và chỗ ở của các vị trong tâm tôi không có nghĩ điều gì muốn gây xáo trộn, ảnh hưởng đến các vị hết. Chuyện của ai người đó làm. Tôi đi kinh hành niệm thần chú của Chư phật. Điều đó rất tốt cho đất đai và quỉ, thần ở đây chứ nào có phá họai gì đâu?”.
Nói xong tới đó, tôi liền kiết ấn hộ thân (tức là kiết ấn Chuẩn Đề để trước trán và đọc Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm và đọc tiếp Hồng, Hồng, Hồng…sau đó tiếp tục để ấn đó lần lượt bên trái và bên phải tuần tự đọc theo như vậy và cuối cùng là để trước ngực). Kiết ấn hộ thân xong tôi lại tiếp tục đi kinh hành. Bà ta liền xoay tay lia lịa kiết ra những chiếc ấn và chiếc ấn đó phát ra ánh sáng màu xanh và đánh vào ngực của tôi. Tôi cảm thấy có một vật gì đó rất nặng và mạnh va vào ngực của tôi làm cho nín thở một lúc.
Ghê thật! Tôi tự nói với mình như vậy. Và liền sau đó tôi thực hành một pháp môn mà tôi đã được học trong vô hình khi hành trì và thọ nhận được. Chư Tổ đã dạy cho tôi bằng linh ảnh và đọc cho tôi thật kỹ từng chi tiết. Câu chuyện đó như sau:
“Một hôm nọ trong hành trì, lúc thân tâm tôi thanh tỉnh, an lạc. Thần chú đến bên tai từng chữ, từng chữ một. Âm thanh ấy nghe thật rõ ràng. Lúc đó, tôi nhìn thấy hình tượng Chư Tổ đang ngồi tĩnh tọa trong khoảng không trên một tấm hoa văn hình vuông. Những hình vuông xếp lên nhau từ nhỏ đến lớn. Trên mỗi hình vuông đều có chữ rất lạ phát sáng. Tấm hoa văn khăn ấn này cũng phát sáng. Dường như nó đang bay.
Chư Tổ mặc một bộ quần áo màu xám, đeo một xâu chuỗi sáng. Tay trái cầm một chiếc ấn, tay phải cầm một cây kiếm. Chư Tổ dùng âm ngữ dạy tôi: “Con hãy nhìn lại tấm thân bằng xương thịt của người. Hãy quan sát thật kỹ và nghĩ xem cái gì thật sự là của mình. Chân tay, mũi, miệng hay lông tóc, máu thịt và nước… nghĩ thử xem cái gì là của mình. Tất cả những thứ đó rồi cũng sẽ bị hủy hoại theo thời gian. Cái nào trên cơ thể mình có rồi cũng sẽ bị hủy hoại không thật sự là của mình. Nếu thật sự là của mình thì nó sẽ còn hoài, Không hư hại, không bị biến dạng. Con hãy nhìn lại đi. Tất cả đều là do duyên hợp lại. Cơ thể của con là do máu- sự thể hiện của Nước, sự chuyển động của hơi thở – gió. Do xương, thịt, vật thực- cái thể hiện của Đất. Rồi lại sự chuyển động của hơi nóng năng lượng – cái thể hiện của Lửa. Bốn đại Đất, nước, gió, lửa đó kết hợp lại thành thân của con. Những thứ này rồi mỗi cái sẽ đi một hướng và thân con rồi sẽ bị phá hoại. Nó chỉ là sự giả hợp. Cho nên gọi là không thật, không huyễn hợp. Và con hãy quán tưởng xem, cái thân con từ tuổi thanh xuân đến khi già chết là một sự chuyển hóa từ sự trẻ trung, tươi mát đầy sức sống đến cái già nua, khô héo và bệnh tật. Rồi nó kết thúc bằng cái chết. Từ từ trong thân phân ra, tan rã ra từng cái một. Hơi thở mất – mất Gió. Hơi nóng của cơ thể không còn – Lửa tan. Xương, thịt rã xa – Đất không còn. Và cuối cùng máu khô đặc – không còn có Nước.
Con hãy quán thân con từ từ thối rữa, rồi từ từ có những con dòi được sinh ra từ máu thịt. Chúng hút rỉa xương thịt thành những bộ xương trắng xóa. Rồi xương cốt ấy cũng từ từ đen và bị mục rửa, tan biến mất. Thì lúc đó con còn cái gì ở tại đó dùng cái biết đó quán thành từng tế bào phân tử trong xương thịt con và thành những vi trần sáng chói nhiều màu mà hình ảnh là Chữ Lam. Lam tự đó lan tỏa đi khắp mọi nơi cúng dường Chư phật, Bồ tát, Thánh Thần. Lam tự đó đi khắp mọi nơi giúp cho mọi cá nhân vật thể ở mọi nơi thanh tịnh và cùng hướng về Phật pháp.
Khi mỗi động chuyển, những vi trần phân tử kia đều phát lên Úm Lam, Úm Lam vang động đến mọi cảnh giới và trừ được những tà niệm, ác niệm. Con hãy tự sám hối. Thành tâm cung thỉnh thọ nhận pháp môn này. Về sau nó sẽ giúp cho con có lợi ích rất nhiều. Nói xong đến đây hình tướng của Chư Tổ cũng tan biến mất”.
Tất cả đó là nội dung câu chuyện Chư Tổ dạy cho tôi. Và trong lúc tôi bị bà Tinh đó đánh và có hiện tượng ngộp thở tôi liền nhớ đến pháp môn này và quán tưởng từng tế bào trên cơ thể tôi phân ra thành từng vi trần phân tử Lam tự. Lúc đó không còn có thân tôi nữa nên không còn cái cảm xúc đau ngộp thở nữa. Năng lực của bà ta mang hình dáng màu xanh đó chạm vào những phân tử Lam tự đó phát sáng cháy lửa rất lớn. Rồi hình dáng của bà Tinh đó cũng tan biến mất. Rồi những cảm giác ngộp thở trong thân tôi cũng tan biến mất. Pháp môn đó thật vi diệu!
Kể từ hôm đó, chùa Phước tự đã trở nên thanh tịnh, ấm áp, rộn ràng. Có rất nhiều người Phật tử lui đến viếng chùa. Từ đó trở về sau, tôi đã chia sẻ cho rất nhiều bạn đạo sử dụng chữ Lam. Đem đến cho bản thân của họ những an lạc. hạnh phúc.
Hôm nay, khi viết bài này, tôi cũng thành tâm chia sẻ lại những kinh nghiệm của mình đã trải. Qua pháp môn này người sẽ ở mãi bên ta trong pháp giới hỷ lạc. Chư phật quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đã nói pháp môn Lam tự vi diệu này.
Cư sĩ Thanh Hùng
Pháp Hiệu Chánh Trí
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
COMMENTS
Có bao giờ chúng ta thắc mắc các cung cõi vô hình các quốc độ được hình thành như thế nào? Như Thầy nói ở đoạn : “ Tiếng than khóc của những người xung quanh đã làm chấn động đến tất cả những vi trần, nghiệp thức của thế gian, tạo thành cộng nghiệp oan ức. Chúng trôi lăn theo thời gian miên viễn và hình thành những tập khí âm u. Chúng bay đi và trôi lăn mang theo những tiếng kêu cứu, khóc than thảm sầu. Chúng ma sát với nhau trong không gian hình thành lên những tiếng hú và rồi hình thành nên những phẩm vị tinh, quỉ, ma chập chờn trong không gian. Cõi ấy đã ra đời…”
Một phần chia sẻ nhỏ này của Thầy thì chúng ta thấy được cõi quỉ ma tinh mị được hình thành bởi tập nghiệp sự ai oán uất hận trong sự ra đi từ bỏ thân xác một cách bất ngờ trong tột cùng của sự đau khổ … từ sự uất hận ai oán ngút trời cứ theo thời gian nghiệp lực cộng nghiệp của nhiều người ma sát thu hút những tập nghiệp tương tự trong vũ trụ mà dần dần tụ hợp trở thành những cõi ma quỉ như vậy.
Những bài viết của Thầy luôn còn giá trị theo thời gian ở mọi khía cạnh của sự hoằng hoá phổ độ.
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm
“ Lam tự đó lan tỏa đi khắp mọi nơi cúng dường Chư phật, Bồ tát, Thánh Thần. Lam tự đó đi khắp mọi nơi giúp cho mọi cá nhân vật thể ở mọi nơi thanh tịnh và cùng hướng về Phật pháp.”
– trích lời Thầy giảng trong bài Pháp
Bài pháp là câu chuyện thiết thực về năng lực của Mật Pháp Lam Tự cùng sự tu hành thực hiện đạo pháp của Thầy luôn thể hiện biểu biện năng lực Phật Pháp của Chư Phật Chư Bồ Tát đem lợi lạc đến sự sống của khắp pháp giới chúng sinh, ngay trong thời gian Thầy trì niệm Mật Chú tại nơi thờ tự đó năng lực của Mật Chú đã giúp cho đất đai nơi đấy được sự thanh tịnh của Phật Pháp nên sau này được duyên lành những người Phật tử thường tới đó tín tâm lễ Phật và cũng như người đàn bà Tinh vị ấy họ cũng được thọ nhận năng lực của Mật Chú trong khi Thầy thực hiện hành pháp năng lực ấy giúp cho người đàn bà ấy thức tỉnh mà được chuyển hoá nghiệp lực, người đàn bà ấy không thể quấy nhiễu nơi đó nữa con tin rằng nhờ có sự tinh khéo nhạy bén thực hiện Pháp Bảo người đàn bà tình vị đó được Thầy khéo đưa họ về với Phật Pháp.
Qua câu chuyện trên con đã được đọc nhiều lần nhưng ngày hôm nay khi đọc lại là một cảm nhận khác. Cách đây không lâu con nằm mơ thấy Thầy dạy cách vẽ quán chữ Lam Tự trong giấc mơ Thầy nói khi hàng ngày viết chữ Úm Lam hay quán chữ Úm Lam cũng chính là đang thiền định nên không được hời hợt quân qua loa mà phải bình tĩnh kiên nhẫn tỉnh giác. Con chợt tỉnh giấc và hàng ngày kiên tâm thực hành lời Thầy dạy. Con nguyện xin được trí huệ Thầy chiếu sáng khắp chúng sinh và con cùng được tiêu trừ đi tập nghiệp vô minh có trí huệ tỉnh giác an lạc
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Khi đọc bài Pháp Thầy giảng con thấy có rất nhiều khía cạnh chi tiết cần phải lưu tâm suy ngẫm để thực hành tu tập rèn rũa tâm thức của con, con nhớ đã có rất nhiều dịp Thầy từng dạy về sự duyên hợp vô thường của cuộc sống như có lần Thầy dạy : “thân thể này không phải là của mình mà nó là sự duyên hợp từ tứ đại đất nước gió lửa nghiệp duyên, nhân duyên của mỗi người cũng như con người khi sinh ra đều phải trải qua sinh lão bệnh tử rồi cũng sinh bệnh, chết đi là sự chuyển hoá khi thân thể ngày một già đi sẽ có mùi hôi, nhan sắc phai tàn cũng không còn không có gì có thể theo ta mãi được chỉ có bằng sự thực hành tu tập trì niệm Mật chú Chuẩn Đề, Mật Chú Lam Tự giúp gội rửa đi những nghiệp xấu giúp nuôi dưỡng tinh thần trí huệ từ bên trong nuôi dưỡng chủng duyên Phật Pháp trong tâm mình.”
Chính bản thân con đã từng có những ngày tháng giờ phút rớt trong sự mờ ảo u mê đầu óc khi chưa được biết đến Mật Chú Chuẩn Đề và khi được thọ Mật Chú mà không trì niệm, con từng trải qua những ngày tháng thất thần chìm đắm trong những si mê dục vọng vô minh. Nhờ có rất nhiều phương pháp Thầy đã gia hộ hoá độ giúp cho con tỉnh thức lại để tìm cầu về chánh Pháp Mật Chú cần phải hết tâm sức chuyên tâm tu tập để có được sự sáng suốt trong tâm để không còn bị rơi vào luân hồi của tập nghiệp nữa là cả một sự cố gắng tinh cần mãi rũa rất khắt khe trong chánh niệm để thực hiện được không dễ dàng chút nào và con biết hàng ngày được đọc những bài Pháp của Thầy là một ơn phước rất lớn là sự huân tu rất quan trọng rất cần thiết.
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Om Mani Padme Hum. Úm A Hùm. A Mi Đà Phật. Úm Lam