Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmHướng dẫn pháp Chuẩn Đề

Những bước chân của Như lai – Quán 32 thể trược – con đường Vipassana 1

Sắc thân giả hợp vô thường tạm bợ (Phần 3) | Người Phật Tử - nguoiphattu.com - Phật giáo Việt Nam

Trên bước đường tu học để củng cố từng bước cho người hành giả dễ hiểu, dễ thực hành cho nên những nội dung chi tiết có thể thực hiện lại bằng những hình ảnh, hình thức ngôn ngữ khác nhau. Trong pháp quán 32 thể trược của cơ thể chúng ta đã thể hiện qua được tới quán xương rồi. Ở chi tiết quán xương này chúng ta nên thực hiện quán sát thật kỹ thật rõ, vì đề mục quán bộ xương trắng tiếp theo cũng nằm trên bộ xương, nhưng yêu cầu người hành giả phải thấy toàn bộ từng chi tiết của bộ xương đều trắng. Xin nhắc lại toàn bộ những phương pháp tu quán mà chúng ta thực hiện đều phải nằm trên nền tảng của Mật chú Chuẩn đề Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Khi chúng ta thực hiện quán sát tâm chúng ta luôn phải có ý niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, và Om Ma Ni Pad Mê Hum. Vì sao ở đây chia sẻ cùng quí bạn những phép quán, mục đích chia sẻ như vậy để chúng ta tịch tĩnh biết cơ thể ( thân) cùng tâm chúng ta nó được giả hợp như thế nào? Nó được hình thành từ đâu, để chúng ta thấy từng tâm sắc ( danh sắc) hình thành nơi tâm thân của mình. Chúng ta luôn luôn vô thường biến đổi để rồi chúng ta đừng chấp đừng vướng vào bất cứ một ý niệm, một pháp nào cả. Từ đó chúng ta nhẹ nhàng thoải mái chỉ nhất tâm niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, chỉ một mực thực hiện pháp tu niệm như thế đó, có như vậy thì người hành giả mới chuyên sâu chuyên tu Mật chú trên mọi hình thức chi tiết khác nhau. Thí như khi chúng ta quán bộ xương trắng thấy từng đốt xương một, từ sự trắng mờ mờ ( học tướng) đến sự trắng trong suốt sáng toả khắp nơi. Khi đó tâm chúng ta đã lan toả ra theo ánh sáng đó cứ cho nó lan toả tự nhiên, muốn cho nó lan toả tự nhiên không bị gián đoạn. Ngay giờ phút đó không có cách nào tốt hơn là ta nghe ý niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm đi theo từng sự lan toả đó. Ở ngay đây người hành giả nếu có thời gian chuyên tu theo pháp Mật chú Chuẩn đề mà chúng tôi đã thể hiện lên tâm mật thì quí bạn sẽ thực hiện thật tốt. Người hành giả quán thấy bộ xương trắng tinh như pha lê và sự lan toả nó bắt đầu, thì ngay khi ấy tâm người hành giả ý niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm tai người hành giả ngay lúc đó nghe Om Ma Ni Pad Mê Hum nó lan toả theo ánh sáng trên. Phương pháp tu này là người hành giả hàng ngày chuyên niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm tai nghe Om Ma Ni Pad Mê Hum, dùng Lục Tự Đại Minh chân ngôn dẫn năng lực của Mật chú Chuẩn đề đi vào sự thanh tịnh, tịch tĩnh của tâm hằng có. Phương pháp này lấy thánh thai Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm làm căn bản, dùng Om Ma Ni Pad Mê Hum nuôi dưỡng thánh thai đó để cho mọi vật vạn pháp đều sống lại còn gọi là thai tạng của Mật giáo, hay hoặc là ngay nơi đó người hành giả sử dụng Om Ma Ni Pad Mê Hum làm căn bản, dùng Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm để nuôi dưỡng tâm Om Ma Ni Pad Mê Hum. Hai tâm chú này sử dụng liên hợp với nhau gia hợp với nhau để một lúc nào đó nó trở thành một khối kim cang vô niệm trở về với tự tánh thanh tịnh ( Kim cang tạng).

Những ý niệm trên chúng ta đã có một khái niệm, nhìn thấy rõ trong phương pháp tu Mật chú Chuẩn đề. Ở phương pháp này nó không có một sự trở ngại, ngăn chia ở bất cứ một pháp môn nào cả, nó thọ hưởng ở giáo pháp của Đức Phật một cách viên mãn. Chính ngay nơi câu chú ấy là pháp phật, giáo pháp ba đời của chư Phật nói ra không sai cải được. Pháp này cũng là chánh pháp, vì nó không có sự ngăn chia giữa Đại thừa, Tiểu Thừa, Thiền, Mật, Tịnh độ gì cả. Nó cũng không có sự nhơ sạch trong đó. Ở mọi khía cạnh cuộc sống , nó đều đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Người hành giả tu Mật chú Chuẩn đề luôn luôn trong đi đứng nằm ngồi đều thực hiện, thể hiện Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Người hành giả ấy luôn luôn lấy Mật chú Chuẩn đề làm kim chỉ nam, làm năng lực, làm kiếm trí huệ để chặt phá phiền não, luôn dùng trí huệ ấy để thắp sáng con đường đi. Vì năng lực vô lượng vô biên bất khả nghĩ bàn nó đang tiềm tàng bí Mật trong chín chữ đó. Người hành giả chuyên niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm cũng như đang tàng giữ những loại chìa khoá để tuỳ duyên mà mở sự bí mật tàng giữ trong Mật chú. Ở ngay đó nó có vô lượng vô biên loại chìa khoá khác biệt nhau, lớn nhỏ khác nhau, nó bằng với 84 ngàn pháp môn của chư Phật, nó bằng với Phật tánh 3 đời của chư Như lai, vì chính Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm mà Phật bộ tổng nhiếp 5 Bộ thần chú lớn, mỗi bộ có 5 bộ nhỏ, tất cả là 25 bộ thần chú. Cho nên đây là một kho tàng bí mật của chư Phật để lại cho chúng sinh thấy như vậy để thấy chư Phật thật là đại từ, đại bi luôn ở trong vạn pháp để cứu giúp chúng sinh.

Người hành giả trì niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, nếu họ dùng trí huệ hiện có đang phát khởi trong tâm để quán sát vạn pháp tu học thì là một điều rất tốt, còn người hành giả họ ngay nơi khởi tâm đó không có một loại nào gọi là trí tuệ để quán sát vạn pháp, nhưng với lòng tin với sự chính kiến không nghiêng lệch sa ngã chấp pháp thiện và ác họ chỉ một mực thực hiện niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm thì ngay nơi đó không tuệ vẫn tuệ tri như thực chúng là, cũng đến sự an lạc giải thoát. Còn người hành giả chuyên niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm họ không có quán sát cùng không có sự tuệ tri mà họ đặt trên nền tảng cầu sự hạnh phúc tiền tài, danh vọng ngay tại thế gian này. Nếu người hành giả thực hiện như vậy với tâm chuyên cần, chuyên sâu họ sẽ đạt được kết quả tốt viên thành sở nguyện của mình. Vì Đức Phật đã nói: “ Người thực hành pháp ta chưa bỏ ngũ dục vẫn đạt thành”. Mặc dù trên căn bản chúng ta nhìn thấy người hành giả kia thực hiện pháp bảo như thế cho rằng chưa tốt. Ở ngay đây không có tốt và xấu với chín chữ Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm mà nó chỉ có tâm Phật, một loại tâm ra ngoài sự chấp có và không, và nó là một loại trí tuệ giải thoát không còn sự ràng buộc bởi hai bên có và không cùng vô ký. Cho nên người hành giả chuyên sâu, chuyên trì niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm như một đoá sen mọc sống trên bùn mà không bao giờ hôi mùi bùn. Người hành giả tu Mật chú Chuẩn đề luôn phải tuệ tri, sự chân thật trong tâm chúng ta như thế đó.

Để trở lại đề mục quán 32 thể trược chúng ta sẽ tiếp tục quán sát đến “ Tuỷ” .

10.Quán “ Tuỷ”: Tuỷ là một loại chất đằng đặc cũng có lông màu trắng được nằm trong ống xương tay chân, xương sống, mùi tanh tanh, cảm xúc rít mơn trớn, vừa rít vừa trơn, vị mặn. Khi chúng ta quán sát một đề mục nào trên cơ thể, nếu chúng ta liên hệ tìm hiểu quán sát trên thực thể “ sắc”, nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, vị nếm, hương thơm, cảm xúc. Tất cả quí bạn nên biết rõ thì rất tốt, và phải biết nó vô thường, vô ngã, khổ. Tất cả những đốt tuỷ kia nó cũng phải bị dị, hoại diệt qua thời gian, mùi hôi tanh cũng sẽ trải qua thời gian biến đổi, vị cũng vậy từng giờ từng phút, từng sát na đều có sự chuyến biết khác nhau “ vô thường”, và phải thấy những đốt tuỷ đó do kết hợp đất, nước, gió, lửa, rồi kết hợp từng vi sinh nguyên tử, phân tử khác nhau mà hình thành, nên chúng không có thực thể nhất định “ vô ngã”. Đã không có thực thể nhất định luôn biến đổi, mà nếu chúng ta chấp vào thật, chấp dính vào ngã, ngã sở sẽ sanh ra khổ. Quí bạn vừa đọc Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm phải nhìn thấy như vậy, phải tuệ tri chân thật như vậy. Khi chúng ta quán tuỷ xong đến quán thận.

11. Quán Thận: Thận là hai trái cật 2 bên trái và phải ở phía sau lưng ngay đốt sống thứ 14, theo Đông y chúng ta kéo giữa rốn sang phía sau, ngay giữa dưới đốt sống 14 là huyệt Mệnh môn hoa – chính giữa 2 quả thận. Chúng cũng được hình thành từ sự duyên hợp ở những tế bào, từng vi sinh nguyên phân tử và cũng vô thường biến đổi theo từng thời gian, và bệnh tật luôn đến với nó, nó cũng bị già mất theo thời gian. Công năng giúp xương tuỷ, tàng tinh của thận…tất cơ chế sinh lý của thận cũng phải trải qua sinh, trụ, dị, hoại diệt. Ở đây phép quán này chúng ta hãy tĩnh tâm, tỉnh thức phải tuệ tri chân thật để thấy toàn bộ từng chi tiết trong cơ thể chúng ta đều phải trải qua vô thường, khổ, vô ngã, sanh, trụ, dị, hoại diệt, và phải thấy bản chất, vật chất từng thời gian biến đổi sinh ra vô lượng sự sinh diệt, đào thải cặn bã, đào thải sự già chết của từng tế bào, rồi tạo tác cái mới. Chu trình đó nó sẽ hình thành nên từng thể trược trong cơ thể chúng ta, mà cách đây mấy nghìn năm Đức Phật đã thấy điều đó, Ngài thật là 1 vị thiên nhân sư, bậc Đại giác chúng ta phải thấy như vậy để kính tin vào Phật pháp kính tin nơi trí tuệ Ngài quyết định, chỉ có con đường chánh pháp của chư Phật mới đưa chúng ta giải thoát.

12.Chúng ta tiếp tục quán sát đến Tim. Tim là một cơ quan “ Quân chủ” chủ về Thần minh theo đông y, sức khoẻ. Chúng ta còn mạnh tốt thì tim sẽ mạnh tốt theo. Cơ quan này rất quan trọng trong cuộc sông đời người của chúng ta, tim cũng phải lệ thuộc trên thành, trụ, dị, hoại, diệt, khổ, vô thường, vô ngã. Trái tim trong ta về thể vật chất nó rất quan trọng, nhưng cuộc sống có mấy ai nghĩ tưởng, quán sát thường đến nó đâu. Khi chúng ta làm lụng mệt nhọc, chúng ta nghĩ tối chúng ta ngủ thật thoải mái, nhưng quí bạn có biết không trái tim chúng vẫn đập, vẫn làm việc 24/24 không nghỉ. Khi trái tim ngưng là cuộc đời này ,xác thân này cũng ngưng. Khi nó đập yếu đập mạnh, đập nhanh, đập chậm đều ảnh hưởng đến sự sống chúng ta cả. Ảnh hưởng luôn cả tâm thức. Khi người có trái tim loạn nhịp yếu bất thường thì chuyện tu của ta cũng khó thực hành. Đây có phải là khổ, vô thường không? Và những biến chứng ở trái tim đa phần do nhiều yếu tố cộng lại, giả hợp chúng ta cũng không thể nào chủ động được trong tái tim ta, cho nên từ đó ta sẽ thấy chúng cũng là vô ngã. Khi chúng ta ăn uống vật thực biến đổi tạo thành tinh chất máu, tạo thành sắc vi thể trong tâm ta những hạt vi thể này, tức là sắc trái tim trong máu. Đây chỉ nói sơ qua để cho hành giả biết hiểu rõ hơn một chút về trái tim. chứ bài này không chủ yếu nói đến sắc trong tâm ( Tim). Để chứng minh điều đó có những hạt sắc trong tim, trong máu không, quí bạn hãy quán kỹ khi chúng ta có cảm giác mà người đặt cho là đau lòng, những hạt ấy hình như chấn động rõ, hoặc khi chúng ta vui cười cũng vậy, những hạt đó sẽ chấn động từ trái tim lan đến toàn thân, não bộ khiến chúng ta khó tự chủ, khó làm chủ được. Như vậy ở tim chúng ta đã thấy nó trược nó khổ, nó dính mắc, nó làm chúng ta khó thoát khỏi sự ràng buộc của ái luyến, ái dục…v,v.

13. Kế đến chúng ta quán đán Gan. Cơ quan này theo đông y thì “Can tàng hồn”, “ Can tàng huyết” chủ về gân thuộc tướng Hoả, khai khiếu ra ở mắt. Gan và tim cũng là một cục thịt bên trong gan có chứa máu. Khi thời tiết thay đổi những cơ quan này cũng đều bị thay đổi theo. Cho nên vô ngã, vô thường. Vì tất cả những vi phân tử tế bào hình thành gan và máu trong cả cơ thể con người đều có những hạt vi thể “ sắc”. Sắc này do thời tiết sanh, chứng minh khi chúng ta lạnh thì những vi thể này mang chủng tử âm hàn trong tế bào, trong huyết chấn động tạo tác mạnh hơn, cho nên ảnh hưởng cả cơ thể con người khi lạnh, khi nóng đều hay biết. Trong quá trinh tự lọc chúng ta phải thật tỉnh giác, tĩnh tâm quán sát thấy rõ những thọ cảm như trên. Trong những bài viết khác tôi sẽ lần lượt nêu lên. Đây gọi là quán “ danh”, và “ sắc”. Danh là những thọ cảm buồn vui thuộc những cảm giác không có hình sắc gọi là danh. Ở đây không phải buồn vui không, mà nó rất nhiều thọ cảm biết trong tâm ta. Chúng ta vừa trì niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, vừa kiểm soát quán sát những thọ cảm, những chấn động, những rung động trong tâm thức ta. Để ý nó thể hiện trên thân ta như ngứa, nóng, đau, rát. Đây gọi là quán thọ trên thọ, quán tâm trên tam. Chúng ta cứ một mực niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Đây là “ tâm” chú của Đức Phật mẫu Chuẩn đề. Cái tâm đó là Phật Mẫu sẽ là người thầy trực tiếp trong vô hình huyền bí. Ngay khi chúng ta thấy những thọ cảm đó, khi thấy trực nhận như vậy, ngay nơi đó sẽ có cái biết để chúng ta hiểu rõ vấn đề. Nhưng ngay nơi đây không được phép phân tích phân định tốt, xấu hay một vấn đề nào cả. Vì chúng ta phải thực hiện chánh kiến ngay nơi đó. Chánh kiến là không chấp hai bên có và không. Chánh kiến là tâm trung đạo các bạn nên nhớ điều đó.
Can nó cũng được biến đổi theo sanh, trụ, dị, hoại, diệt khổ, vô thường, vô ngã. Những cơn nóng giận đều làm khí huyết sôi sụt vì sự nóng giận này do hành hoả quá mạnh. Hoả là lửa, là nhiệt cho nên khí huyết nông sôi sụt, mà cơn giạn này nó do nhiều chi tiết buồn vui ( tâm thức) do sự đau, mến, tiếc, do thời tiết, rất nhiều yếu tố cho nên chúng cũng chỉ là sự duyên hợp không có thực thể của nó, còn gọi là vô ngã. Không thực thể bị tác động ở muôn điều, vạn chi tiết cho nên nó gọi là vô thường và vô thường như vậy mặc cho thời tiết, mặc cho máu huyết nóng lạnh cùng hờn tủi. Cho nên gan nó sẽ bị biến dạng cũng nằm trong sanh, trụ, dị, hoại, diệt.

14. Tiếp theo chúng ta quán sát đên Màng ruột. Màng ruột chỉ là những lớp mỡ bầy nhầy tạo thành một màng bao bọc ruột. Chúng cũng khổ, vô ngã, vô thường và sanh, trụ, dị, hoạt diệt theo thời gian và từng cơ duyên biến đổi. Khi quan sát chúng ta phải thấy sự vô thường, vô ngã, khổ cũng sanh trụ, dị, hoại diệt và phải thực hiện quán trên mũi. Mũi phải thấy mùi tanh của tinh dịch, tân dịch, huyết mỡ. Miệng lưỡi phải có ý niệm thật lạt, mặn. Có như thế chúng ta mới thấy được mục đích của “ thể trược”.

Chúng ta sẽ quan sát tiếp ở Bao tử. Tất là vị của đông y nó chủ về tàng chứa thức ăn vật thực. Đây cũng giống như một nghĩa địa, tất cả những vật thực đủ mùi vị, tanh, hôi, thối, thơm, cay, nồng, nóng, lạnh, ấm tạo thành một hỗn hợp. Nơi đây sắc do thời tiết, sắc do tứ đại ( hoả) sẽ tạo tác biến thành những hạt vi thể trong huyết, trong tân dịch, trong phân, nước tiểu. Đây là một túi thịt co bao bọc thức ăn bản chất của bao tử cũng phải qua sanh, trụ, dị, hoại diệt, vô thường, khổ, vô ngã. Bao tử nơi đây sự sinh hoá của nó cũng phải nhớ đến khí huyết. Trong khí huyết có bao nhiêu vi thể, tế bào, bao nhiêu đơn vị siêu vi sinh sống trong đó. Cho nên nó cũng không thật thể, chỉ là một sự giả hợp vô ngã, không tự chủ được. Bao tử nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến thức ăn, ảnh hưởng gián tiếp qua các tạng khác không đủ khí huyế bao tử cũng không hoạt động được. Thức ăn không hợp nóng quá cũng không được, lạnh quá cũng không hợp. Ở ngay đây có muôn điều tạo tác, tác động đến không tự chủ được nên “ vô thường”. Những vật thực âm dương nóng, lạnh tương sinh tương khắc tạo thành bệnh tật “ khổ” và đến khi thân này bị hoại chúng cũng thối, cũng ra theo.

15. Tiếp theo chúng ta quán Phổi. Phổi là một tạng hành Kim theo đông y nó chủ về khí, tàng phách, chủ bì mao da, lông. Bản chất của phổi là như vậy, chúng được hình thành thành 2 lá 2 bên thân mềm sũng, trong có khí và huyết. Ngay đây cũng đủ cả mùi tanh, hôi của đàm của huyết của tân dịch. Bản chất của phổi cũng phải bị sanh, trụ, dị, hoại diệt. vô thường, vô ngã, khổ. Tất cả những tạng cơ quan trong cơ thể chúng ta đều ảnh hưởng đến sắc do thời tiết ( nóng, lạnh, ấm). Sắc do vật thực sanh. Sắc do dinh dưỡng sanh. Sắc do tứ đại đất, nước, gió, lửa sanh. Nhìn bên ngoài chúng ta thấy một hình người dường như cứng mạnh. Nhưng nếu chúng ta phân tích ra từng vi thể do từng tế bào , từng vi thể sinh trùng, từng sự rung động chuyển động chúng ta sẽ thấy nó chỉ là một cái bọc bên trong có đầy đủ máu, mủ, tân dịch, xương cốt, nước tiểu, phân. Từng giờ, từng phút những hạt vi thể những vi sinh trùng kia cũng biến dạng sanh diệt liên tục. Nghĩa là cơ thể chúng ta từng giờ, từng phút biến chuyển vô thường, khổ, vô ngã không có cái gì trong đó dừng trụ cả , dần đưa chúng ta từ sanh, trụ, dị, hoại diệt, sanh, lão, bệnh, tử cứ như vậy mà luân chuyển.

Mục đích quán thể trược này xin nhắc lại một lần nữa là: Làm sao chúng ta tuệ tri như thực là vô thường, khổ, vô ngã. Trong nhiều lần nhắc lại để chúng ta cùng nhớ, cùng thức tỉnh trong từng giờ phút thoải mái, rảnh rang, hay chịu sự nhẫn nại trì niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, vừa niệm vừa quán sát xin đừng quên Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm như vậy. Như vậy đó là con đường an lạc và hạnh phúc.

Chúng ta đã thực hiện quán xong phổi, kế đến chúng ta sẽ quán ruột, trực tàng, vật thực chưa tiêu hoá, phân, óc. Quán xong những tiêu mục này sẽ hết phần quán về đại địa gồm 20 phần.

 

Chúng ta đã thực hiện quán xong phổi, kế đến chúng ta sẽ quán ruột, trực tàng, vật thực chưa tiêu hoá, phân, óc. Quán xong những tiêu mục này sẽ hết phần quán về đại địa gồm 20 phần.

16+17. Ruột, trực tràng: Chúng ta hầu như ai cũng đã biết qua ruột, trực tràng nó sống với chúng ta trong suốt cuộc sống, nhưng ít ai để ý đến nó. Hình thể của ruột, trực tràng chúng ta đã thấy rất nhiều trên hình ảnh nó cũng như những chiếc đãi da dài, có từng chặng, trong đó nó chứa toàn những thức ăn sau khi được dạ dày nghiền nát. Cho nên ở đây trở thành một hỗn hợp đủ mùi vị cộng hưởng với nhau, con người rất khó chịu khi tiếp xúc với mùi vị này. Bản thân của ruột trực tràng nó cũng phải chịu theo sự vô ngã ( lệ thuộc của các tạng phủ trên ) và bấn chất từng vi thể tế bào kết hợp hình thành lại. Không thực thể ( không có tướng nhất định) chúng phải chịu sự biến dịch vô thường thay đổi sanh, trụ, dị, hoại diệt, và ngay nơi bản thân của ruột trực tràng vì bị lệ thuộc các tạng khác các phủ khác, cho nên cũng nằm trên sự “ khổ”, bệnh, già, hoại diệt. Ngay ở hai bộ phận này chúng ta thấy cái trược, cái khổ của chúng như vậy và còn nhiều hơn nữa nếu chúng ta nghiên cứu sâu hơn. Như vậy toàn bộ những cơ quan lục phủ trên cơ thể chúng ta đều cấu tạo trên nền tảng không thực thể duyên hợp vô ngã, vô thường, khổ đều nằm trên luật sanh, trụ, dị, hoại, diệt ( sanh, lão, bệnh, tử. Quán như vậy chúng ta đã thấy được một phần của sự hư vọng duyên hợp rồi.

18. Vật thực chưa tiêu hoá: Thức ăn chưa tiêu hoá, những loại thức ăn này, nếu chúng ta nhìn thấy và những thức ăn này như một đống rác lớn thì hỡi ôi! thật kinh tỡm mùi vị khó ngửi, dịch nước chảy ra tanh hôi, hơi các boníc hôi thối cùng nhiệt ( sức nóng) khó chịu. Những thứ này nó làm cho thân thể cùng tinh thần ta bệnh tật hãy nhìn rõ, xác định rõ nó để chúng ta cùng biết sự trược của nó là như thế nào, để trong cách sống sinh hoạt tu học có con đường thanh khiết trong sạch hơn.

19. Quán phân: Tiêu mục này hầy như ai cũng biết cũng hiểu rõ sự trược của nó là như thế nào. Cho nên ở đây chỉ nêu ra thôi, tuỳ theo từng sự quán của quí bạn.

20. Quán óc: Để kết thúc 20 đề mục của địa đại ( yếu tố đất). Óc ở đây nó được dấu kín trên hộp sọ trên đầu, nó màu trắng bên trong nó rất mềm. Ở đây quí bạn sẽ thấy cái trược của nó là nó rất mỏng manh là một mối đe doạ của con người, bản thân của nó được kết hợp thành những vi thể rất nhỏ mềm, dễ dã, dễ tan, dễ hoại, dễ chấn thương. Một tai nạn giao thông, hay một tai nạn khác có một vật cứng làm bể làm nứt, hoặc làm chấn động phần mềm đó, thì cuộc đời con người đó, một là lìa khỏi cõi đời này bỏ xác này lại. Hai là trở thành ngây dại, điên khùng như những con vật. Tai họa rất lớn nằm ở đây, ở những bộ phận này chúng ta sẽ thấy được sự mỏng manh của đời người. Đó là nói đến sự va chạm ở bên ngoài, còn riêng bản thân của nó vẫn phải chịu sự khổ, vô thường, vô ngã, biến dịch, sanh, trụ, dị, hoại diệt. Vì sự duyên hợp của những vi thể cùng các chất dinh dưỡng, độc tố, sự chấn động ma sát cho nên thành “ khổ” bệnh, hoại diệt. Óc não rất quan trọng ở con người, nhưng cũng rất mong manh và đại hoạ.

Trong phép quán 20 thể trược của đại địa này, chúng ta cũng tạm có chút ít về những ý niệm, một chút gì nhận xét ở thân thể chúng ta. Mục đích ở đây thể hiện lên những ý niệm này để cùng nhau chia sẻ lắng đọng lại biết thân thể, tâm thức chúng ta đều do sự duyên hợp mà hình thành. Chúng ta đã thường nghe, thường đọc những từ ngữ như vô thường, vô ngã, khổ không thật thể, không tướng, vô tướng. Những từ ngữ này đều nói đến sự duyên hợp của các vi thể, các chất tế bào để hình thành nên cơ thể con người. Riêng bản thân không có tính thực thể của nó đều bị lệ thuộc rất nhiều nguyên nhân biến dịch ở ý nghĩa này, cho nên Đức Phật mới nói rằng “ không tướng” không tướng, vô ngã, vô tướng không phải là không có, nhưng chúng chỉ được kết hợp lại ở nhiều nguyên nhân biến dịch không thật thụ được. Nếu thật thụ có thật thể, thì không hư hoại theo thời gian và không gian. Bên ngoài vũ trụ cũng vậy; đất, đá, sắt thép, kim cương… cũng phải đều được hình thành trên nhiều nguyên nhân biến dịch. Ở đây thể theo giáo pháp của Đức Phật thể hiện ra một phần thô hữu hình ở cơ thể, liên hệ chút ít đến sự vật trong vũ trụ vô vàn, vô lượng nguyên nhân biến dịch nữa đang chờ quí bạn thâm nhập vào giáo pháp của Đức Phật , huân tập giáo pháp của Đức Phật để thấy hiện thực bản chất của sự vật vạn pháp, để ngay nơi đó chúng ta bừng sáng lên “ biết rõ” cái tự tánh thanh tịnh của chúng ta nó hằng có từ lâu rồi, nó luôn nằm bên ngoài sự vô thường, vô ngã, khổ đó. Chúng ta ai nấy cũng có cái biết rõ đó. Người bình thường, người trí, bậc xuất gia, hoà thường, thượng toạ cũng đều có cái “ biết rõ” đó không sai không khác. Nói như vậy để chứng minh rằng chúng tôi thể hiện vạn pháp nói chung, thể hiện giáo lý nguyên thuỷ nói riêng, thể hiện Mật chú mục đích là cùng nhau nhìn thấy “ biết rõ” tự tánh thanh tịnh đã hằng có. Ở đây đưa ra các phương pháp thiền nguyên thuỷ, những phương pháp quán 32 thể trược trên không phải nhằm mục đích hướng dẫn hành giả đạt thành Thánh quả, thiền quả, phàm quả gì cả, mà giúp quí vị “ biết rõ” vạn pháp để sống thật với chính mình. Ngay nơi bản thân mình, nó không ở đâu cả, không tìm cầu chỉ cần quay lại với chính mình.

Ngay nơi đây chúng tôi thường chia sẻ cùng quí bạn đạo hành giả chỉ chuyên niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Cứ niệm như vậy sống với nó, sống như vậy là tự sống với cái “ Biết rõ ràng” hằng có trong tâm chúng ta. Vì khi niệm Úm chúng ta biết đó là Úm, biết rất rõ ràng. Cũng vậy khi niệm Chiết cho đến …Bộ Lâm tâm ta luôn luôn lúc nào cũng biết cả. Ngay nơi cái biết đó không có sự sanh diệt, phân biệt điên đảo. Càng huân tập trì niệm càng lâu cái biết đó sẽ làm chủ lấy nó. Ở đâu, ở niệm nào cũng thấy, nghe, biết rõ ràng Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Như vậy tiếng niệm ấy là dụng, cái biết rõ ràng là thể, thể dụng sử dụng với nhau thì chân tướng của các pháp sẽ thể hiện ra hết . Người hành giả cứ sống, cứ niệm như vậy. Một câu chuyện nhỏ như thế, một chi tiết đơn giản như thế nhưng nó hàm chứa cả pháp tạng của chư Phật 3 đời. Để rõ thêm chi tiết điều đó xin trích ghi lại một bài kinh ở hệ Phật giáo nguyên thuỷ – Kinh Tương Ưng trong bài kinh: “ Có pháp môn nào”.

– Phật bảo các tỳ kheo: “ Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ nội tâm có tham sân si, hoặc nội tâm không có tham, sân, si. Biết rõ nội tâm ta không có tham sân si”.Này các Tỳ kheo. Khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si. Biết có tham sân si, nội tâm không có tham, sân, si biết không có tham, sân, si. Này các Tỳ kheo. Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do lắng nghe được, hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn được hiểu biết, hay do thích thú biện luận được hiểu biết.
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Có phải các pháp này do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?
– Thưa phải, bạch Thế Ton.
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy.
Cuối cùng ở bài kinh này Đức Phật xác định: “ Đây chính là pháp môn. Này các Tỳ kheo, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận có thể xác chứng với chánh trí, vị ấy biết rõ sanh tử đã tận, việc làm đã xong, không còn sanh trở lại đời nào khác nữa”.

Ở bài kinh này Đức Phật xác định rằng cái biết nơi nội tâm có tham, sân, si, không tham, sân, si khi sáu trần, sáu căn tiếp với nhau đều “ biết rõ” chỉ biết rõ những niệm đó như vậy. Nếu biết thêm chần chờ phân biệt thì thuộc là tình thức. Như vậy có phải đây là cái biết mà ai cũng có không? Ai trong chúng ta cũng đều biết nhưng có mấy ai biết rõ mà không bị sự phân biệt kéo đi. Khi chúng ta phân biệt kéo đi tất là sanh tử, sanh diệt luân hồi. Để bảo đảm sự tu trì trở về với cái biết rõ đó. Ở đây chỉ đưa ra trì niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm để thực hiện cái biết rõ ràng đó trên mật chú. Mật chú ở đây hoàn toàn không có nghĩa gì cả. Cho nên người hành giả khó mà phân biệt được, và mật chú là tâm của Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề cũng là pháp thân tâm của 3 đời chư Phật. Người hành giả chuyên trì niệm Mật chú Chuẩn đề khi chưa đạt pháp đều được sự chỉ dạy của năng lực tâm phật, đều được sự gia hộ, bảo hộ sự an lạc hạnh phúc. Người hành giả chỉ chuyên trì niệm sẽ hưởng được những lợi ích vô vàn của năng lực Mật chú, đạt thành những công đức vi diệu để thể hiện phật tánh thanh tịnh.

 

Trong pháp quán 32 thể trược chúng ta đã quán sát qua 20 phần thuộc Địa đại. Phần quán này cũng đã giúp chúng ta một phần nào về xác thân của mình. Hôm nay chúng ta sẽ quán sát tiếp theo 12 phần nữa thuộc về Thuỷ đại. Để nhắc lại mục đích quán sát 32 phần trược này của cơ thể để chúng ta nhìn thấy một phần nào của khối tổng thể của cơ thể mình để trên bước đường tu học có nền tảng quán sát cơ thể duyên hợp. Trong kinh thường hay nói đến sự giả hợp, duyên hợp của cơ thể. Nếu chúng ta không chú ý tìm hiểu, học hỏi thì khó nhận định biết sự duyên hợp giả có như thế nào. Lần này trong những chi tiết sau chúng ta sẽ thấy và quán sát khối tổng thể đó. Nhìn thấy nó duyên hợp bằng những tế bào, những vi thể sắc, những sự rung động…v,v.

Giáo lý của Đức Phật thật vi diệu, mỗi pháp đều có cái hay, cái giải thoát của nó. Vì sao? Vì Đức Phật luôn muốn chúng ta giải thoát, và chính nơi Đức Phật đã giáo ngộ, chứng ngộ, chứng đắc điều đó. Càng đi sâu vào chúng ta sẽ thấy dục giới, sắc giới. Thể này nó muôn màu muôn vẻ. Vô sắc giới tiềm ẩn rất vi diệu. Ở những phương pháp quán này từng bước, từng bước người hành giả thâm nhập tỏ ngộ, chứng đắc giáo pháp, giáo lý này nó tiềm tàng trong Nguyên thuỷ phật giáo. Ở đây trong những bài viết tôi thường đưa ra những giáo lý Nguyên thuỷ này đi cùng. Nhưng mục đích ở đây không chú trọng, đặt nặng trên nền tảng giáo lý đấy, mà muốn chúng ta cùng nhau hướng tu đến nền tảng Thiền đốn ngộ của chư Phật. Khi mọi hành giả biết rõ ngay nơi thân tâm của mình là một sự duyên hợp giả có, thấy biết rõ như vậy thì ngay nơi đây hành giả phải biết rằng cái gì biết, những hiện tượng pháp trên chúng ta nhìn sâu kỹ lại đều chỉ thấy có cái biết. Nhưng ở đây người hành gỉa chúng ta nên biết với “ cái biết hằng có”, không có sự phân biệt tình chấp. Như nhìn thấy một đoá hoa, nghe một âm thanh, chạm một cảm xúc, những pháp những ý niệm đó nó đến liên tục, nhưng những ý niệm pháp đó khởi lên tâm ta đều biết rõ ràng. Cái biết chiếu soi này nó nằm ở đâu? Nhưng khi vật đến, pháp đến nó đều biết. Cái biết này từ khi chúng ta mới sinh ra nó đã hằng có rồi. Cái biết này từ khi 60 tuổi, 100 tuổi cái biết đó không sai không khác. Khi người hành giả nhìn thấy hoa “ biết” nói “ biết” đi, “biết” ăn, “biết” tất cả những sự thường tình đều biết hết. Phật pháp hay nói đúng hơn Phật tánh thanh tinh ấy chưa từng nhiễm ô, chưng từng vơi đầy. Chúng ta khổ vì chạy theo vật, chạy theo pháp. Nghe một tiếng chim. Thay vì chỉ biết nghe nơi đó, nhưng chúng ta chạy theo tình thức vọng tưởng phải phân biệt tiếng chim đó hót hay, kêu hay, kêu dở. Tiếng của chim ém, tiếng của chim hoạ mi. Ngay đó chúng ta liền chạy theo vật. Khi thấy một đoá hoa cũng vậy. Nếu ngay đó chỉ thấy không phân biệt “ Biết đoá hoa” đừng chạy theo sự cảm xúc hay dở, đẹp xấu thì chúng ta không bị cuốn theo vật, theo niệm khởi, theo các pháp. Ngay khi mới, để có một vật nào trong tâm ấy, tâm bất sinh. Nhưng khi lớn dần lên từng ý niệm hình ảnh, cảm xúc, mùi vị, sự phân biệt bắt đầu dính mắc, diễn biến tâm bất sinh đó thành tâm tham, sân, si. Chúng ta hãy sống đúng thực tại, vạn pháp đến, vạn niệm đến chỉ biết rõ nơi đó và rồi cũng quên “ Biết đó” vì trong tâm bất sinh đó không có vật gì, không thiếu một vậy gì cả.
Bất sinh bất diệt
Là cái bản tâm
Địa, Thuỷ, Hoả, Phong
Chỗ đến trú tạm
Vì vướng cái này
Một gian nhà lửa
Chính bạn châm ngòi
Đốt mình ra lửa
Hãy tìm trở lui
Về thời gian ấy
Khi bạn mới sinh
Nhớ được chút gì?
Hãy để tâm bạn
Như mới lọt lòng
Thì thân tâm này
Là một vị Phật
Gì tốt gì xấu
Đều phát sinh từ
Cái ngã mà ra.

Đoạn thư này xin dẫn chứng lại chi tiết nội dung của “ Tâm bất sinh” . Ngay nơi đây “ Tâm bất sinh” người hành giả cứ Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, từng chữ, từng câu đều biết rõ ràng. Đến một lúc nào đó không còn niệm nữa, nhưng cái biết đầy khắp mọi nơi, nó tự đồng hoá, tự chiếu soi Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Khi đó là tâm chú cua Phật Mẫu Chuẩn Đề, tâm chú Phật Mẫu Chuẩn Đề, hay Chuẩn đề Pháp thân cũng là “ Tâm bất sinh” vi diệu. Ở pháp tu Thiền quán Mật chú Chuẩn đề này chuyên tu đặt trên nền tảng Thiền đốn ngộ, phương pháp tu học này không có thiện,ác, thánh, phàm, niết bàn cùng phiền não. Vì tất cả đối với tâm bất sinh, tâm chú Chuẩn đề pháp thân xua nay không có một vật nào cũng không thiếu một vật nào cả. Ngày xưa chư Tổ dùng một cây gậy, một tiếng hét, một ngón tay v,v… để làm người ta thức tỉnh sống chân thật chính với mình. Chư tổ, Chư Phật như vậy trong quá khứ, hiện tại, vị lai luôn an trú trong tâm bất sinh. Thiền quán Mật chú Chuẩn đề lấy Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm để đồng nghĩa với cây gậy, tiếng hét của Đức Sơn, Lâm Tế. Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm để nhằm giúp cho quý hành giả kính tin nơi pháp tu mà thực sự sống trong pháp ấy để tự giải thoát cho mình. Xin trích những đoạn kinh có liên quan.

Kinh nói: Lúc ấy ông Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát ở nước chúng Hương rằng: “ Đức Như Lai Hương Tích thuyết pháp bằng cách nào?” Các Bồ tát ấy đáp: “ Đức Như lai ở cõi chúng tôi chẳng thuyết pháp bằng văn tự, Ngài chỉ dùng các mùi thơm làm cho các trời và người được vào luật hạnh. Bồ tát thì mỗi vị đến ngồi nơi cội cây thơm, ngửi mùi thơm vi diệu kia liền chứng được tam muội “ Nhất thiết Đức tạng” được Tam muội đó rồi thì bao nhiêu công đức của Bồ tát có thảy đều đầy đủ hết. ( Phẩm Phật Hương Tích)

Tiếp theo quí vị sẽ thấy Đức Phật Thích Ca đã bảo Ngài A Nan: “ Hoặc có cõi Phật dùng quang minh của Phật làm Phật sự, có cõi dùng các Bồ tát làm Phật sự, có cõi dùng người biến của Phật làm Phật sự, có cõi dùng cây Bồ đề làm phật sự, có cõi dùng cơm và đồ ăn làm phật sự”. Như vậy những dẫn chứng này cho rằng chân nghĩa của phật pháp không nhất định, cố định trong văn tự ngữ ngôn hay trong một khuân khổ nào cả. Đối với tâm bất sinh đều có trong vạn pháp vạn tướng vì nó luôn luôn hằng có chiếu soi vi diệu. Vậy Mật chú Chuẩn đề Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm thể hiện chiếu soi vi diệu tâm bất sinh.

Trong vô niệm yếu chỉ này chúng ta sẽ thấy tất cả vạn pháp bằng một sự chân thực, chân thật là tâm bất sinh luôn chiếu soi. Vì sự chiếu soi đó chúng ta sẽ thấy biết rõ ràng tất cả vạn pháp vạn niệm.Tiếp đến chúng ta sẽ quán sát biết rõ 12 phần Thuỷ đại trong 32 phần quán thể trược.

Trong phần quán này chúng ta sẽ thấy: 1. Mật, 2. Đàm, 3. Mủ, 4. Máu, 5. Mồ hôi, 6. Mỡ, 7. Nước mắt, 8. Mỡ nước, 9. Nước miếng, 10. Nước mũi, 11. Hoạt dịch ( nước khớp xương), 12. Nước tiểu. Đó là 12 phần quán về Thuỷ đại chúng ta đã biết ít nhiều về một sự duyên hợp giả có của từng sự vật, từng pháp rồi thì hôm nay chúng ta sẽ nhìn qua sẽ biết thật rõ những loại nước thuỷ đại nêu trên chúng đều có mùi, vị hôi, thối, tanh hôi khác nhau và chúng được hình thành trên tam tướng, vô ngã ( vì rất nhiều vi thể, tế bào kết hợp lại và chúng sẽ bị biến dịch theo từng giai đoạn thời gian khác nhau, cho nên chúng không tự chủ được gọi là vô ngã, và những sự biến dịch đó khiến chúng bị trong sanh, trụ, dị, hoại diệt ( tất sanh lão bệnh tử) Từ thơm sanh thối, sang hôi tanh, từ trắng đỏ, sang sanh vàng đen thối rữa. Những thứ này thật tế nếu chúng ta tỉnh giác nhìn ngắm chúng, quan sát chúng sẽ thấy sự trược bất tịnh của chúng không nghĩ bàn được. Ở đây quán sát là như vậy nhưng chúng ta phải thấy theo tinh thần đốn ngộ là bản tâm chúng ta là tâm bất sanh, từ khi mới sinh ra không một vật, giờ này ngay phép quán này cũng phải thấy tâm ấy cũng không một vật, không thiếu một vật. Chúng ta ghê sợ, vui, hờn, giận tức là chúng ta biến tâm bất sinh, tâm phật đó thành sự ghê sợ, tham, sân, si. Hãy nhớ đến đó Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm, chỉ biết như vậy thôi thì thần chú Chuẩn đề là tâm bất sinh, Chuẩn đề tâm chú pháp thân.

 

cư sĩ Thanh Hùng

Pháp hiệu: TC. Trí

mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

COMMENTS

WORDPRESS: 2
  • comment-avatar

    Người hành giả quán sâu vào 32 thể trược cơ thể để thấy biết rõ ràng rằng cái thân này là giả hợp duyên hợp của nhiều yếu tố hợp thành. Cái thấy biết chân thật này để người hành giả tỉnh biết lấy giác niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm để tỏ ngộ sự giải thoát sự ràng buộc của thân, của tâm. Khi thấy cái ngã ràng buộc ta trong ngôi nhà lửa dục giới, sắc giới, vô sắc giới. người hành giả từng bước thực hành trong pháp lấy kinh nghiệm đó từng bước nhận mở kho tàng bí mật để làm chủ lấy mình

  • comment-avatar
    kimcangdaonang 4 năm ago

    Thầy chỉ dạy và giảng giả các phương pháp quán thân bất tịnh trên 32 thể trược của thân.hàng đệ tử chúng con nguyện một lòng kính tin thọ trì những lời Thầy giảng về phép quán 32 thể trược trên thân.đệ tử chúng con nguyện cầu năng lực của mật chú Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm làm đường dẫn giúp cho đệ tử chúng con được giác ngộ phép quán 32 thể trược trên thân.để chúng con hiểu được từng bộ phận trên thân thể đều là một sự giả hợp do nhiều duyên hợp lại mà thành 

    Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường 
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm 
    Om Ma Ni PadMe Hum