THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT – TU BỒ ĐỀ (GIẢI KHÔNG ĐỆ NHẤT)
1- ĐIỀM LÀNH “KHÔNG” SANH
Lời dạy của đức Phật về sự hiện hữu của vũ trụ nhân sanh thật đa dạng và linh hoạt như khói sóng, không có bờ mé. Trong Phật pháp, lấy Đại thừa làm trung tâm điểm, và trong pháp Đại thừa lại dùng Bát-nhã là trung tâm. Bát-nhã là gì? Lời giải thích hay nhất cho danh từ ấy là Trí tuệ hiểu về tánh “không”.
Chữ KHÔNG rất huyền diệu, khó biết, nói “có” chẳng trúng, nói “không” chẳng nhằm. KHÔNG, chẳng thể dùng ngôn thuyết, cũng chẳng thể dùng tâm tư để thấu đáo đạo lý đó. Dưới tòa đức Phật, trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đại A-la-hán, người hiểu rõ lý Không, chân thật thể chứng được diệu nghĩa của Không, chính là tôn giả Tu-bồ-đề, Giải không đệ nhất .
Nói về Tu-bồ-đề, chúng ta có thể nhìn ngay từ điềm lành thuở sơ sanh của Tôn giả, mới biết đó là một nhân vật phi phàm đặc biệt.
Ngày vừa chào đời, tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà Tu-bồ-đề bỗng nhiên biến mất, không thấy một cái nào. Người trong nhà đều lo sợ, vội mời thầy xem tướng đến bói một quẻ. Tướng sư gieo quẻ rồi nói:
– Đây là một hỷ sự, trong nhà sanh quý tử. Tiền bạc, bảo vật trong nhà đều trống rỗng ngay khi cậu bé chào đời đó là tượng trưng cậu bé là người Giải không đệ nhất . Chúng ta nên đặt tên cho cậu bé là Không Sanh! Điều này rất đại cát đại lợi, tương lai chú bé sẽ không bị danh văn lợi dưỡng thế gian ràng buộc, gọi chú là Thiện Cát cũng tốt.
Lời nói của nhà thầy làm an lòng mọi người. Từ đó mọi người gọi tên “Không Sanh” hay “Thiện Cát”. Ba ngày sau, tài bảo và dụng cụ trong nhà mới trở lại như trước. Tôn giả Giải Không Đệ Nhất mới sanh bày điềm là một chuyện hy hữu xưa nay ít có.
2- NHÀ TỪ THIỆN NHỎ BỐ THÍ
Thuở ấu niên, khi chưa quy y Phật, Tu-bồ-đề xem các pháp thế gian, và đối xử với mọi người chẳng giống ai.
Tuy sanh trưởng trong gia đình giàu có, cha mẹ rất cưng chiều, nhưng từ nhỏ Tu-bồ-đề đã không nô lệ vào tiền tài báu vật. Cha mẹ cho đồng nào, cậu thường đem cho người nghèo cùng. Đi đường mà gặp kẻ hành khất áo không kín thân, cậu liền cởi áo ngoài cho luôn, chỉ mặc áo ngắn quần cụt về nhà.
Cha mẹ không tiếc một vài đồng, nhưng với việc làm của cậu con yêu thường không bằng lòng kêu lại dạy dỗ:
– Không Sanh! Con làm như vậy không được, tiền bạc có sẵn không kể lý do gì mà đem cho người, quần áo mặc trên người cũng cởi ra cho, để trần thân thể thiệt khó coi.
Tu-bồ-đề ôn hòa, cung kính thưa với song thân:
– Con chẳng biết vì sao trong tâm con lại nghĩ rằng tất cả trên thế gian này rất quan hệ với con, thân thể mọi người cũng như thân con. Khi sanh ra đã chẳng áo quần thì trần trụi sao lại không tốt? Đem của mình cho người, người và con sao lại không như nhau?
Nghe Tu-bồ-đề nói, cha mẹ chẳng vui chút nào:
– Con chỉ là con nít mà thiệt kỳ cục, có tiền không biết xài, quần áo chẳng thiết, nói lý lẽ gì đâu chẳng sợ người ta chê cười. Từ nay về sau nếu con không sửa đổi thì cha mẹ sẽ nhốt trong nhà, không cho ra ngoài nữa.
Vậy mà Tu-bồ-đề chẳng sửa đổi, tánh ưa bố thí làm lành, cha mẹ bèn giữ luôn trong nhà. Điều đó lại là một điều hạnh phúc cho Tu-bồ-đề. Mỗi ngày cậu tìm đọc và nghiền ngẫm những sách vở về triết học và tôn giáo của Ấn Độ đương thời, do đó đối với vấn đề nhân sanh có một sự hiểu biết rành rẽ. Cậu thường tự hào nói với cha mẹ:
– Tất cả sum la vạn tượng trên vũ trụ đều hiện rõ trong tâm con. Tâm con như hư không rỗng rang chẳng có chút gì. Nếu như trên thế gian này không có bậc Thánh nhân đại trí đại giác, thì ai có đủ tư cách để luận bàn với con về tâm cảnh của người giải thoát, ai cũng không rõ được thế giới trong tâm con.
Lời nói tự đắc của chàng thanh niên Tu-bồ-đề, cha mẹ nghe qua lại liên tưởng đến việc lạ kỳ khi chàng mới sanh. Thật là người khác thường, lời nói cũng kỳ lạ. Trong lòng song thân cũng thầm nghĩ con mình thiệt lạ đời.
3- QUY Y VỚI ĐỨC PHẬT
Một hôm, đức Thế Tôn đến quê hương của Tu-bồ-đề giáo hóa. Dân làng xôn xao truyền miệng rằng Phật-đà là bậc Nhất thiết trí, trên thế gian không ai sánh bằng.
Mọi lời bàn tán đến tai Tu-bồ-đề, hơn nữa cha mẹ chàng cũng theo dân làng quy y với đức Thế Tôn. Gia đình chàng chỉ có một truyền thống là tín ngưỡng Bà-la-môn giáo, tại sao hôm nay cha mẹ lại theo mọi người dễ dàng cải giáo. Lần này đến lượt Tu-bồ-đề lại thấy cha mẹ mình kỳ quái.
Một hôm, phụ thân chàng nói:
– Không Sanh! Con thường tự cho mình rất có Trí tuệ, đã thông suốt chân lý nhơn sanh, nhưng sánh với đức Phật con khác xa. Đức Phật chẳng những có đại Trí tuệ mà cũng đại từ bi, đại thần thông. Từ khi Ngài quang lâm đến làng ta, người trong làng phần nhiều quy y với Ngài. Cha định thỉnh đức Thế Tôn về nhà cúng dường, đối trước mặt Ngài con nên bỏ tâm cuồng ngạo đi nhé.
Trong tâm Tu-bồ-đề không phục chút nào, chàng nói:
– Đối với con mắt mọi người, Phật-đà là bậc Nhất thiết trí, nhưng với con ông ấy cũng chỉ là một người bình thường.
Tuy nói như vậy, nhưng rốt cuộc Phật-đà là người như thế nào? Tại sao lại có sức cảm động lớn lao đến thế? Khi bình tĩnh lại, Tu-bồ-đề đã tự thắc mắc rất nhiều, và chàng không muốn đợi đến khi đức Phật đến nhà thọ trai mới tương kiến. Chàng nghĩ, nếu như đức Phật bận rộn việc gì mà không đến thì làm sao? Cho nên chiều hôm ấy, chàng lén đi trước xem Phật-đà ra thế nào?
Chiều tối, gió mát hiu hiu, trăng thượng tuần lơ lững trên không, muôn sao nhấp nháy như cười nhạo tính hiếu kỳ của Tu-bồ-đề. Một mình chàng đến nơi, gặp lúc đức Phật đang ngồi trên tòa cao thuyết pháp, bốn bên sáng lòa, trước mặt là cả ngàn vạn thính chúng đang quỳ rạp. “Ô kìa! Thân Phật dường như phóng hào quang! Người ấy không giống người thường, tướng mạo viên mãn, trang nghiêm”. Thân tướng của Phật đã vượt quá tầm mức tưởng tượng của Tu-bồ-đề. Giữa khung cảnh yên tĩnh chỉ có tiếng thuyết pháp của Phật, ngàn vạn thính chúng chẳng dám thở mạnh. Phật dạy: “Thế gian này chẳng nên tranh đấu với nhau, xưa nay vốn không phân biệt nhân ngã, mọi người đều là một thể. Tất cả pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chẳng có vật nào có thể độc lập mà tồn tại. Mình và vạn vật đã nương nhau để sống còn, thì việc ban bố lòng thương và ân huệ cho chúng sanh mới xem giống như vì người, nhưng thật ra đối với chính mình có lợi ích lớn.”
Pháp âm của Thế Tôn rất từ hòa, đạo lý Ngài nói đó khiến Tu-bồ-đề cảm động. Chàng lẩn vào trong Thánh chúng, len lén chắp tay bái Phật.
Phật thuyết pháp xong trở về tịnh thất an nghỉ. Tu-bồ-đề cứ đứng bồn chồn trước cửa thất, nghĩ muốn vào gặp Thế Tôn lại không dám.
Đức Phật biết ý chàng bèn ra gọi:
– Anh là ai? Hãy vào trong này nói chuyện với ta!
– Con, Tu-bồ-đề, rất mong được đức Phật thâu nhận cho con làm đệ tử xuất gia!
– À! Anh là Tu-bồ-đề. Ta từng nghe nói anh là người thông minh nhất trong thôn. Rất tốt, người thông minh chân chánh mới có thể chân chánh tin hiểu và vâng theo Phật pháp. Cha mẹ anh biết không?
– Con nghĩ rằng cha mẹ con nếu biết chắc chắn rất vui mừng cho con được hân hạnh gặp Phật-đà để làm vị đệ tử xuất gia.
Đức Thế Tôn gật đầu hoan hỷ. Từ đó Tu-bồ-đề khoác áo ca-sa, thành một đệ tử khác thường trong chúng.
4- XIN NHÀ GIÀU KHÔNG XIN NHÀ NGHÈO
Sau khi xuất gia, Tu-bồ-đề sống với ba y một bát, mỗi sáng sớm đi vào làng khất thực, chiều đến thì theo Phật nghe pháp, tham thiền.
Chúng Tỳ-kheo mỗi ngày đi khất thực đều tuân theo pháp chế của Phật, thứ tự mà xin, dù đi một mình hay đi với chúng Tăng, bất luận nhà người cho hay không đều phải tuần tự qua hết.
Nhưng Tu-bồ-đề, lúc đầu lối sinh hoạt khất thực đã không đồng chúng. Mỗi khi rời tinh xá, Tôn giả đã tách đường đi riêng, Tôn giả vẫn giữ oai nghi nghiêm chỉnh của người đi một mình, từng bước an tường tìm chỗ mà xin cơm. Các Tỳ-kheo ban sơ không lưu tâm đến việc ấy, nhưng lâu ngày mới phát giác trong hành động của Tôn giả có vẻ lạ thường. Mọi người chú ý mới biết sự việc ra thế nào.
Nguyên lai, Tu-bồ-đề khất thực hành hóa thích đến cửa nhà giàu có, Tôn giả mà thấy nhà cửa nhỏ hẹp hoặc biết nhà nào kinh tế nghèo cùng thì không ôm bát đứng trước cửa. Chẳng kể đường xa đến đâu, Tôn giả cũng đi tìm nhà phú quý, còn không thì thà để bụng đói chứ không khất thực.
Một hôm, trong thành Tỳ-xá-ly, có một vị Tỳ-kheo cười mỉm với Tôn giả trên đường đi và nói:
– Nghèo khó thì ở ngay mặt cũng không ai hỏi thăm, giàu sang ở núi sâu cũng có người thân. Trong thành Tỳ-xá-ly này toàn là thương buôn phú hộ, chẳng biết hôm nay Tôn giả chọn được nhà nào?
Tu-bồ-đề nhìn vị Tỳ-kheo một cái, rồi mới giải thích:
– Đại đức! Tôi chẳng phải không ưa người nghèo, tôi cũng là một người đích thực bần cùng vậy! Thiệt tôi có phát nguyện chỉ đến nhà giàu mà xin, không đến nhà nghèo đưa bát. Đó là điều khổ tâm của tôi, xin đạo hữu lượng xét.
– Tôn giả xin nhà giàu không xin nhà nghèo, mỗi ngày dinh dưỡng đầy đủ, không lạ gì mà thân thể mạnh khỏe như thế. Ngài xem Ngài béo tốt thế kia!
– Đại đức! Xin đừng nói như vậy!
Tu-bồ-đề ôn hòa nhỏ nhẹ giải thích nguyên nhân khất thực chọn lựa của mình:
– Tôi đến khất thực nhà giàu, không phải vì tham thức ăn ngon, như quả thật tham ăn tôi đã không xuất gia học đạo. Vì sao tôi không đến nhà nghèo? Vì người cùng khổ, tự họ đã sinh sống khó khăn, đâu có dư dả thức ăn mà cúng dường chúng ta? Nếu khiến họ cố ý phát tâm, thì cũng chỉ là lòng có dư mà sức không đủ. Chúng ta đã không có thức ăn cứu tế họ, đâu lẽ lại thêm gánh nặng cho họ. Trái lại, chúng ta đến xin nhà giàu, họ bố thí chút thức ăn đối với họ chẳng nhằm gì. Cho nên tôi xin nhà giàu không xin nhà nghèo là vì vậy.
Tu-bồ-đề nói rõ quan niệm của mình, vị Tỳ-kheo kia mới thôi, không nói nữa.
Trong Tăng đoàn, người có phong độ tương phản với Tu-bồ-đề là Đại Ca-diếp. Tu-bồ-đề xin giàu chẳng xin nghèo, còn Đại Ca-diếp xin nghèo chẳng xin giàu.
Tu-bồ-đề không hiểu rõ dụng tâm của Đại Ca-diếp, nhân một buổi chuyện trò rỗi rảnh mới hỏi:
– Tôn giả Đại Ca-diếp! Thái độ xin ăn nhà nghèo của Ngài trái ngược với tôi, tôi vô phép xin Ngài nói cho biết nguyên nhân.
– Tôn giả Tu-bồ-đề! Chúng ta là Sa-môn xuất gia, làm việc theo đạo lý, đó là phước điền của nhân gian. Chúng ta thọ sự cúng dường của họ, là để cho họ có cơ hội tăng trưởng phước huệ. Tôi đến nhà nghèo khất thực là để cho họ gieo phước điền để trừ nhân nghèo khổ cho tương lai. Người giàu đã nhiều phước đức, chúng ta cần gì thêm hoa trên gấm?
Lời nói của Đại Ca-diếp, một mặt giải thích cho mình, một mặt để đả kích Tu-bồ-đề xin giàu không xin nghèo. Tu-bồ-đề nghe xong chỉ gật đầu. Tôn giả không bắt buộc người phải giống mình, chỉ nói:
– Khất bần, khất phú đều là vì lợi ích chúng sanh. Tôn giả! Phương tiện của Phật pháp rất nhiều, chúng ta mỗi người có thể tự làm theo đường lối riêng, kỳ thật đều là giáo pháp của Thế Tôn.
Thái độ khất thực của Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp thành hai thái cực đối chọi nhau. Lời nói và cung cách của hai vị, sau đức Phật biết được, Ngài đều không tán thành cả hai và từng quở trách tâm hai người không quân bình, đều không hợp với pháp khất thực.
Pháp khất thực chân chánh, là không chọn lựa nghèo giàu, không chia dơ sạch, oai nghi nghiêm túc, thứ lớp hành khất.
Đại Ca-diếp cố chấp hơn, sắc thái khổ hạnh rất mạnh, Tôn giả xưa nay không nguyện xả bỏ khổ hạnh. Tu-bồ-đề tánh rỗng rang, đối với chỉ thị của Phật trăm y trăm thuận. Từ đó, Tôn giả sửa đổi thái độ khất thực của mình, luôn luôn cảm ơn mà tiếp thọ lời chỉ giáo của Như Lai.
5- RƠI LỆ TRÊN HỘI BÁT-NHÃ
Tu-bồ-đề ở trong Tăng đoàn, nghe pháp tu hành rất nhiệt tâm. Trong mười sáu hội, bốn nơi thuyết pháp Bát-nhã, nếu như không đi giáo hóa ở địa phương khác thì chưa từng vắng mặt.
Một hôm, Phật ở tại tinh xá Kỳ Viên, dự bị thuyết Kim Cang Bát Nhã. Trăm ngàn đệ tử trì bát khất thực trong thành trở về đều tuần tự đi nhiễu quanh đức Phật. Trước tiên, Thế Tôn nhắm mắt tịnh tọa, và trong chúng không ai dám hướng Phật đưa ra vấn đề hỏi han.
Lúc ấy, Tu-bồ-đề hiểu rõ ý Phật, ở trong đại chúng đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, đảnh lễ Phật rồi, cung kính hỏi:
– Bạch Thế Tôn! Đệ tử chúng con đều biết Thế Tôn là bậc tối thiện, nhiếp hộ chúng con, nhưng đối với hàng thiện nam tín nữ phát tâm Bồ-đề, làm thế nào để an trụ? Với những vọng niệm nhiễu loạn như thế, làm thế nào có thể hàng phục? Xin đức Thế Tôn từ bi vì đại chúng tuyên nói.
Câu hỏi của Tu-bồ-đề, Phật rất hoan hỷ, khen ngợi Tôn giả hiểu rõ căn ý đại chúng, Ngài đáp:
– Như muốn an trụ nơi tâm Bồ-đề, không bị vọng niệm quấy rối, thì khi bố thí nên hành bố thí vô tướng, khi độ sanh nên hành độ sanh vô ngã, nên y theo đó mà an trụ, y theo đó mà hàng phục.
“Vô tướng bố thí, vô ngã độ sanh” Tu-bồ-đề thậm thâm liễu giải đạo lý và nghĩa thú này, Tôn giả cảm kích pháp âm của Phật, vui mừng rơi nước mắt, quỳ dài trước tòa của Thế Tôn thưa:
– Bạch Phật! Từ khi con làm người đến nay, cái đạo lý sâu xa vi diệu như thế này mới được nghe đến lần đầu. Từ đây con không còn vướng vào chấp pháp và chấp ngã. Bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả cũng không thể trói buộc con. Lìa tất cả chấp trước mới thấy được lý không, lìa tất cả danh tướng mới thấu đáo nhơn sanh. Hôm nay, con đã thể hội tâm ý của Phật, như là nhận thức rõ chính con.
Tu-bồ-đề khai ngộ, từ đó được xưng là bậc Giải Không Đệ nhất .
6- NGHE TÍCH XƯA TĂNG LÒNG TIN
Đức Thế Tôn tuy biết Tu-bồ-đề đã lìa chấp trước, nhưng vì lòng từ bi, lại thêm một phen tha thiết nhắc lại sự tích tu hành của mình, để làm tăng thêm lòng tin của Tu-bồ-đề trong sự bố thí vô tướng và độ sanh vô ngã. Đức Phật hồi tưởng lại đời quá khứ và kể rằng:
“Tu-bồ-đề! Trong đời quá khứ ta từng tu hành trong núi sâu, trải qua một đoạn nhân duyên như sau:
Khi ta đang tĩnh tọa dưới cội cây đại thọ, nhắm mắt nghiền ngẫm những lẽ bí áo của vũ trụ và khởi nguyên của nhân sanh, bốn bề gió mát lai rai, hoa cỏ bay mùi hương u nhã, hốt nhiên một trận cười lảnh lót vang lên, ta mở mắt nhìn xem, té ra một bầy cô nương yêu kiều diễm lệ đang đứng trước mặt ta.
Bọn họ mặc y phục cung nhân, châu ngọc óng ánh, khiến người mới nhìn không tưởng là tiên nữ trên trời thì cũng là vương phi chốn nhân gian. Họ nắm tay nhau, cười nói đến trước ta, hỏi:
– Ông đạo ạ! Ở chỗ núi cao rừng rậm này sao dám ngồi tu một mình? Ông không sợ cọp, beo, hùm, sói làm hại sao?
Ta nhìn các cô, ngồi nghiêm chỉnh đáp:
– Thưa các cô nương! Ở trong núi sâu này mà tu đạo, đích thị chỉ có mình tôi. Tu hành không nhất định phải có nhiều bạn lữ. Người có lòng từ thì rắn độc, thú dữ không làm tổn hại. Ở chốn thành thị, những thứ tiền vàng, sắc đẹp, cai trị hà khắc uy quyền, cũng là một thứ hổ báo sài lang của rừng núi đấy!
Ta nói vậy, bọn cung nữ kia liền từ bỏ thái độ kiêu mạn, cung kính thỉnh ta thuyết pháp. Ta bèn ngắt một bông hoa nhỏ bên cạnh, tiếp tục nói:
– Này các cô! Người đời xưa nay ưa tìm cầu khoái lạc, nhưng khoái lạc cũng có thứ chân thật, thứ giả dối, có lâu dài và ngắn ngủi tạm bợ. Thiệt là mọi người đều bị mê hoặc bởi thứ khoái lạc hư giả và ngắn ngủi. Giống như đóa hoa này tuy thật đẹp, nhưng không vĩnh viễn nở hoa bay hương. Tuổi trẻ với sắc đẹp, sức khỏe và sự hùng mạnh đều không đủ cho chúng ta nương tựa. Người đời quý ở chỗ học đạo, mong được thăng hoa sinh mệnh, được kéo dài sức sống, đó mới là việc khẩn yếu!
Lúc ta đang nói, bỗng một người mặc y phục vương giả, tay cầm gươm báu từ rừng cây bước ra, đến bên ta lớn tiếng mắng rằng:
– Mi là ai? Dám cả gan đùa cợt với cung phi của ta?
– Đại vương! Xin phép hỏi quý danh của Ngài. Xin đừng hạ nhục người như thế.
Ta thấy y đến với vẻ hung bạo phải nói như vậy.
– Ngươi ngủ mê phải không? – Nhà vua hung hăng nói – Oai danh của ta chấn động khắp nơi, ngươi há không biết ta là Ca-lợi Vương sao? Hèn gì dám cả gan mê hoặc cung phi ta.
– Đại vương! Xin đừng nói thế. Người tu hạnh nhẫn nhục không mắng trả lại nhà vua, nhưng ngài tạo khẩu nghiệp ấy tương lai sẽ không tốt đâu!
– Ngươi tu hạnh nhẫn nhục à? Ta sẽ cắt đứt thân thể ngươi ra từng mảnh, xem ngươi còn nói tu nhẫn nhục không?
Tu-bồ-đề! Lúc ấy Ca-lợi Vương xuống gươm xẻo tai, móc mắt, xẻo mũi, chặt hai tay, hai chân ta đứt đoạn, mà ta vì muốn độ chúng sanh, vì lòng từ đối với chúng sanh, lúc ấy không có chút gì sân hận. Ta theo tinh thần độ sanh vô ngã, dần dần tu tập tích chứa phước huệ, trang nghiêm quả Phật. Tu-bồ-đề! Hành hung người không thể thắng người, chỉ có người hành nhẫn nhục mới là người thắng lợi tối hậu!”
Tu-bồ-đề nghe qua một đoạn sự tích nhân duyên tu hành của đức Thế Tôn thời quá khứ rất là cảm động. Tôn giả thể hội được chân lý vô ngã tối cao và đạt đến huệ KHÔNG sâu xa.
7- “KHÔNG” LÀ GÌ?
Đối với lời chỉ dạy của Phật, Tu-bồ-đề biết rõ sự tương quan nhân duyên trong vũ trụ, tất cả đều do nhân duyên thành lập, cũng do nhân duyên tiêu diệt. Nhân duyên là lời chú giải rõ ràng nhất cho lý “Không”.
Không, chẳng phải là Không của cái chẳng có gì, cũng chẳng phải trống rỗng không ngơ; Không, chẳng hề lìa nhân quả của sự vật mà có; Không, chẳng phải là phá hoại nhân duyên sanh ra các pháp; Không, là đầy đủ tánh chất cách mạng và tánh chất tích cực.
Không, là nghĩa lý của Phật pháp Đại thừa, Không, đại biểu cho tinh thần Phật giáo Đại thừa. Chẳng phải đệ tử Phật cố nhiên không thể hiểu rõ được lý Không. Lại có một số đệ tử Phật cũng ít thấu hiểu rõ diệu nghĩa của Không. Tu-bồ-đề thường than rằng người hiểu “Không” quá ít.
Một hôm, một ngoại đạo Bà-la-môn thuộc giới trí thức, gặp Tu-bồ-đề trên đường đi bèn chất vấn:
– Tôn giả Tu-bồ-đề! Nghe nói Ngài là người Giải không đệ nhất trong hàng đệ tử Phật. Tôi xin hỏi: Tất cả sự vật trên thế gian đều tồn tại rõ ràng mà Ngài cho là Không, giải thích là Không, thì làm sao cho trọn vẹn lời giải thích ấy?
Tu-bồ-đề đưa tay chỉ một ngôi nhà và nói:
– Ông xem gian phòng này do bốn yếu tố đất, nước, gạch, ngói và các nhân duyên hòa hợp mà thành hình, nếu đem phân tán đất, nước, gạch, ngói thì tướng trạng cái phòng còn không có, mà tên gọi “gian phòng” cũng không có nốt. Từ phương diện “Tất cả đều do hòa hợp” có thể thấy lý “Không”. Gian phòng này mà ở trong thôn xóm này, thì thật ngon lành đẹp đẽ tinh xảo, nhưng nếu đem so sánh nó với những phòng ốc của chốn đô thành thì nó thật là xấu xí, đơn sơ, nhỏ hẹp. Những phòng ốc nguy nga cao lớn của phố thị mà đem so sánh với hoàng cung của thành Xá-vệ thì rõ ràng không đủ sức để nói. Từ mặt sự lý tương đối ấy, cũng có thể thấy lý “không”. “Không” chẳng phải là phủ định hết thảy; Không, có bối cảnh của không, có nội dung của Không. Không, đó là diện mục bổn lai của tất cả sự vật.
Bà-la-môn nọ nghe xong, trầm tư một phen, đưa tay làm lễ Tu-bồ-đề, nói:
– Tôn giả! Ngài chẳng hổ danh là bậc đệ tử Giải không đệ nhất của Phật-đà. Lời chỉ dạy của Ngài khiến tôi rất cảm phục. Thiệt xấu hổ cho tôi chẳng đủ tư cách cùng Ngài đối luận. Xin chào Ngài, chúng ta sẽ gặp sau!
Tu-bồ-đề trang nghiêm gật đầu chào, vẽ một nét trong không trung biểu thị ý rằng:
– Đang lúc ông tóc đen thành tóc bạc, đang lúc ông thấy trên cành, lá rụng xuống đất, rồi lại hoa rơi hạt rụng, nẩy mầm, tăng trưởng và nở hoa, kết trái, qua bao nhiêu tuần hoàn biến hóa và trở lại nguyên thể của nó, Ngài nhớ kỹ đó là “Không”!
Và họ chia tay.
8- NGƯỜI THỨ NHẤT NGHINH ĐÓN ĐỨC PHẬT
Tu-bồ-đề thể chứng lý Không, tuyên dương lý Không, tất cả oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi của Tôn giả cũng biểu thị lý Không.
Một hôm, bỗng nhiên không thấy bóng đức Phật trong Tăng đoàn, tứ chúng đệ tử xôn xao tìm kiếm, đều không biết đức Phật đi đâu. Sau ngài A-na-luật dùng thiên nhãn xem xét mới biết Thế Tôn đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu Ma-da phu nhân, khoảng ba tháng nữa mới trở xuống. A-na-luật báo cho đại chúng biết tin ấy. Mọi người đều mong mỏi, mỗi một đệ tử đều cảm thấy một ngày không gặp Phật lâu bằng ba năm.
Ba tháng trôi nhanh, đức Thế Tôn lại trở về nhân gian. Đang khi Ngài chưa đến Tăng đoàn, các đệ tử biết tin đều tranh nhau nghinh đón. Lúc ấy Tu-bồ-đề đang vá y trong một hang động tại núi Linh Thứu, nghe truyền tin đức Phật trở về, liền đứng dậy buông áo xuống cũng định đi nghinh tiếp. Ngay lúc đó, trong tâm khởi lên một ý nghĩ, Tôn giả lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôn giả nghĩ rằng: “Ta đi đón Phật, để làm gì? Chân thân của Thế Tôn không thể thấy bằng sáu căn, ta mà đi nghinh tiếp Ngài chẳng khác nào cho rằng pháp thân Ngài do tứ đại hòa hợp, đó là ta không nhận thức được tánh Không của các pháp. Không thấy tánh Không tức là không thấy được pháp thân Phật. Vì pháp thân Phật chính là tánh Không của các pháp, không có chủ tạo tác, cũng không bị tạo tác. Muốn thấy Phật, trước tiên phải hiểu rõ ngũ uẩn, tứ đại là vô thường, biết rõ tất cả sự vật hiện có đều không tịch, biết các pháp sum la vạn tượng là vô ngã. Không ngã, không nhân, không năng tác, không sở tác. Tất cả pháp đều rỗng lặng, pháp tánh biến khắp mọi nơi, pháp thân Phật chỗ nào cũng có. Ta phụng hành giáo pháp của Phật, đã thể chứng lý Không của các pháp, ta nghĩ mình không nên lầm mê trên sự tướng”.
Với nhận thức ấy, Tôn giả lại an nhiên ngồi vá áo, không đến nghinh tiếp đức Phật.
Phật trở về. Thật là sự vui mừng lớn lao trong Tăng đoàn, chỗ nào cũng đầy vẻ hân hoan, mọi người đều muốn bái yết Phật trước người khác. Khi ấy, trong hàng Tỳ-kheo ni có bà Liên Hoa Sắc – Thần thông đệ nhất, là người đón Phật trước nhất, bà vừa đảnh lễ Phật vừa nói:
– Bạch Thế Tôn! Đệ tử là Liên Hoa Sắc, người thứ nhất nghinh đón Thế Tôn, xin Phật nhận cho con bái yết.
Đức Phật mỉm cười chậm rãi nói:
– Liên Hoa Sắc! Ta trở về, nghinh đón ta trước nhất chẳng phải là ngươi đâu!
Liên Hoa Sắc lấy làm ngạc nhiên, nhìn hai bên, trưởng lão Đại Ca-diếp đều còn ở phía sau, Liên Hoa Sắc hoài nghi, thưa hỏi:
– Bạch Thế Tôn! Đệ tử chẳng dám hỏi, nhưng trước con ai là người nghinh đón Ngài?
Đức Phật lại mỉm cười, nhìn các đệ tử đông đảo kéo đến, trả lời Liên Hoa Sắc mà cũng như bảo với đại chúng:
– Các ông rất tốt, xa xôi đến mấy cũng đi đón ta, nhưng người gặp ta trước nhất chính là Tu-bồ-đề. Ông ấy lúc này đang quán sát tánh Không của các pháp trong hang núi Kỳ-xà-quật. Ông ấy mới là người chân chánh nghinh tiếp ta. Người thấy pháp mới là người thứ nhất thấy Phật, người đệ nhất nghinh tiếp Phật.
Liên Hoa Sắc và các đệ tử nghe Phật nói, mới biết đối với giáo pháp của Thế Tôn, đối với việc lãnh hội chân lý vũ trụ, mọi người đều không bằng Tu-bồ-đề.
Qua lời khen ngợi đặc biệt của Thế Tôn, Tu-bồ-đề càng nổi danh, càng được đại chúng tôn kính.
9- VỊ A-LA-HÁN SỐ MỘT TRONG LOÀI NGƯỜI
Lối sống và tâm tư của Tu-bồ-đề, rất điềm đạm tự tại, thường ở trong Không tam-muội giải thoát.
Làm người trên cõi đời này, dù là một ông thánh đi nữa cũng lắm phen bị chê cười phỉ báng. Cho nên chẳng kể bạn như là một viên ngọc không tỳ vết, xa lìa mọi thứ danh văn lợi dưỡng, vì chúng sanh giúp ích rất nhiều, vậy mà cái bọn phàm phu tục tử của thế gian cũng muốn kiếm chuyện nói xấu bạn thế này thế nọ.
Tu-bồ-đề tu đạo, hoằng hóa, mỗi ngày làm việc lợi lạc khắp quần sanh, nhưng nhân tình ấm lạnh, miệng lưỡi lắm lời cũng không buông tha Tôn giả. Song, Tôn giả xem những thứ ấy như gió thoảng ngoài tai, chẳng hề động tâm sanh lòng.
Một hôm, trên đường thuyết pháp hoằng hóa, Tôn giả nghe có người phê bình mình. Họ nói: “Tu-bồ-đề là cái thá gì. Ông ấy chẳng làm nên tích sự, ở trong Tăng chúng giống như một tên ngáo, không có chút sống động coi cho ra hồn.”
Lại có các Tỳ-kheo nghe như vậy, bất bình giùm Tôn giả. Họ hỏi Tu-bồ-đề sao không trả lời lại, Tu-bồ-đề an nhiên, hòa nhã mà đáp:
– Thưa các vị! Đa tạ các vị có lòng yêu mến bạn đạo, nhưng xin các vị chớ có khởi lòng bất bình như vậy. Biện bạch vô ích là một thứ tranh luận, tranh luận là tâm còn hơn thua, rất trái xa chân lý. Chúng ta là người tu, đối với những lời gièm pha, phỉ báng, cho tới nghịch cảnh ma nạn đều phải xem đó như là cái duyên tăng thượng để trợ đạo. Nhờ đó mà tiêu trừ nghiệp chướng, lại tăng lòng tin mạnh mẽ. Vả lại, trong thế giới của chân lý, không có chuyện tranh cãi. Chân lý là không ta không người, không đây không kia, không có cao thấp, không còn thánh phàm. Tôi đã biết lý chân không vô trụ, một tướng bình đẳng, cho nên cái tâm của tôi, như vạn lý tình không, một chút xíu cũng không có, tôi biện bạch với họ để làm chi.
Tu-bồ-đề – Giải không, tấm lòng và tâm niệm khoáng đạt tự tại như thế, nên các Tỳ-kheo rất khâm phục tác phong của Tôn giả.
Tu-bồ-đề đối với chúng sanh luôn dùng đức nhẫn nhục, thật là người cao thượng hạng nhất. Tôn giả thường nói: Nếu như có chúng sanh nói tôi đứng hoài không tốt, thì tôi liền ngồi suốt ngày, như còn chê tôi ngồi hoài không được, thì tôi sẽ đứng luôn cả ngày. Tôi đối với tất cả pháp không khởi một tí phiền não và không làm phiền một chúng sanh nào.
Tu-bồ-đề, hay tùy thuận thế gian, hành đại nhẫn nhục, đối với bất cứ ai đều không não loạn họ, không tranh cãi với họ, đều là vì Tôn giả thông đạt tánh Không.
Đức Phật biết Tu-bồ-đề tu hành như thế rất hoan hỷ vui lòng, một hôm trên hội Bát-nhã Ngài khen ngợi:
– Tu-bồ-đề! Trong hàng đệ tử ta, người tu đạt đến trình độ như ông thật hiếm có. Ông đã thể chứng Vô tránh tam-muội, đó là đệ nhất trong loài người, ta chúc mừng cho ông. Ông đã là vị A-la-hán ly dục bậc nhất!
Tu-bồ-đề được Phật khen ngợi, trong tâm rất cảm kích mừng vui, nhưng lại chẳng dám tự đắc. Tôn giả chắp tay đảnh lễ và nói:
– Bạch Thế Tôn! Ngài ban cho đệ tử chúng con những lời từ bi ái hộ, khích lệ chúng con, con đem hết tâm tư cùng bất tận sự cảm kích. Thế Tôn nói con là bậc nhất trong loài người, là A-la-hán ly dục số một, nhưng con chẳng hề nghĩ rằng con là A-la-hán ly dục, nếu con nghĩ như vậy thì chưa dứt hết ngã chấp, rốt cuộc cũng còn chìm đắm trong pháp chấp, có chứng có đắc. Bạch Thế Tôn! Con không nghĩ như vậy, cũng không làm như vậy, vì nhân duyên vô sanh vô vi, đức Thế Tôn mới nói với con những lời ái hộ mỹ mãn. Thật ra, chính tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Mục-kiền-liên mới đúng là bậc A-la-hán ly dục!
Tu-bồ-đề rất khiêm tốn và rất khéo dùng lời, từ đó chúng ta có thể biết Tôn giả là một vị thánh A-la-hán.
10- AN TỌA TRONG ĐỘNG ĐÁ, MƯA HOA RƠI RƠI
Tu-bồ-đề là vị A-la-hán ly dục, không tranh hơn thua với thế gian, không mong muốn gì ở thế gian. Có khi Tôn giả ở trong Tăng đoàn tu học cùng với đại chúng, dự nghe lời Phật dạy, có khi tu tập thiền định trong rừng, pháp hỷ lại càng cao sâu.
Núi Kỳ-xà-quật, là một danh sơn, đỉnh non tú lệ, rừng sâu trúc dầy, phong cảnh rất hợp với người tu. Đức Thế Tôn thường ngự đến đây cũng vì lý do ấy. Tu-bồ-đề rất thích lối sống trong núi, cho nên lúc nào cũng thấy ở Linh Thứu Sơn.
Gặp ngày trời quang mây tạnh, Tôn giả tọa thiền dưới gốc cây, bên sườn núi, hoặc kinh hành quán tưởng. Gặp lúc mưa gió thì vào trong động, hoặc núp dưới cội đá tùy chỗ an thân.
Đối với Tôn giả, núi sâu rừng rậm là một đạo tràng kín đáo tu hành rất tốt, ban ngày chim bay thú chạy bên cạnh, đêm đến, trăng sao trùn dế làm bạn bè. Chốn thiên nhiên phong quang vô hạn. Tu-bồ-đề thường nghĩ, người ta vốn từ cõi Không mà đến, cũng nên trở lại với thiên nhiên không tịch.
Một hôm, Tu-bồ-đề ngồi thiền trong thạch động, nhập Không tam-muội, công hạnh thâm sâu ấy cảm động đến Chư thiên Hộ pháp, rất nhiều vị trời xuất hiện trên không, rải thiên hoa bay phơi phới trước Tôn giả, chắp tay khen ngợi Tu-bồ-đề:
– Tôn giả! Làm người có danh vọng tiền của thế gian, thiệt chẳng có gì đáng tôn đáng quý, dầu cho quốc vương, phú hào cũng đều bị trói buộc trong phiền não dục vọng. Tôn giả! Đúng bậc tôn quý trên thế gian, thật là người đại tu hành như Ngài. Hiện nay, Ngài nhập Không tam-muội, ánh sáng oai đức của Ngài chiếu suốt Thiên cung của chúng tôi. Tu-bồ-đề ở cõi người xứng đáng thọ sự cúng dường của cõi trời. Ngài khéo nói Bát-nhã, lúc nào cũng dạo chơi ở chốn Không tam-muội như trời xanh vạn dặm. Ngài thoát khỏi phàm tình nhân gian, dù phiền não hắc ám hay Bồ-đề trong sáng cũng không thể che mờ Tôn giả. Ngài cắt đứt dây sắt dục tình và bẻ gãy xích vàng pháp chấp. Tôn giả vĩ đại, xin hãy tiếp thọ hoa trời cúng dường, chúng tôi xin đảnh lễ Tôn giả để tỏ lòng tôn trọng.
Lời xưng tán của thiên nhân, hoa trời rơi tán loạn kinh động đến Tu-bồ-đề. Tôn giả sau khi xuất định, hỏi thiên nhơn:
– Các ông là ai? Vì sao đến đây mưa hoa khen ngợi ta?
Vị thủ lãnh chư Thiên chắp tay thưa:
– Tôi là Thiên Đế Thích, mấy vị kia đều là thiên nhơn.
– Vì sao các vị ân cần khen ngợi tôi như thế?
– Chúng tôi kính trọng Tôn giả nhập Không tam muội, khéo thuyết Bát nhã.
– Tôi chưa từng nói một chữ Bát-nhã cớ sao các ông khen ngợi?
– Tôn giả không nói, chúng tôi không nghe. Không nói, không nghe là chân Bát-nhã.
Tu-bồ-đề nghe xong, hài lòng mỉm cười, khen chư Thiên:
– Trên hội Bát Nhã, đức Phật nói pháp vi diệu thậm thâm, lúc ấy các ông hộ trì đạo tràng đã tín thọ thâm hiểu. Đa tạ các ông đem hoa thơm rải cúng, nguyện thiên hoa này, mùi hương biến mãn cõi người, cõi trời.
Tu-bồ-đề nói xong, chư Thiên lại làm lễ một lần nữa từ từ biến mất trong mây.
Chư Thiên mưa hoa cúng dường, trừ đức Phật, chỉ có tôn giả Tu-bồ-đề mới có danh dự đặc biệt ấy.
11- CHƯ THIÊN TẤU NHẠC THĂM BỆNH
Tu-bồ-đề thường trú tại núi Kỳ-xà-quật. Một hôm, bỗng nhiên tứ đại bất hòa, ma bệnh vấn vít Tôn giả khiến thân tâm cảm thấy mệt mỏi không an.
Là một vị Thánh, sức tu hành thâm hậu mà còn bệnh sao? Nhiều người không thông hiểu được chuyện này. Thật ra, sắc thân bị nghiệp báo chiêu cảm là pháp hữu vi, đã là pháp hữu vi đâu tránh khỏi hiện tượng khổ, không, vô thường. Tu-bồ-đề đã chứng Thánh quả, tinh thần của Tôn giả giải thoát, nhưng sắc thân hữu vi còn đó, sắc thân là pháp thế gian, đương nhiên phải chịu luật sanh, lão, bệnh, tử của thế gian.
Khi Tôn giả cảm thấy bệnh trầm trọng, bèn đem tọa cụ trải trên đất, và ngồi kiết già, đoan thân chánh ý tư duy:
“Cái bệnh khổ của thân này từ đâu đến? Ta phải làm gì để có thể hết bệnh?” Tu-bồ-đề tự hỏi một cách thâm sâu như thế, và nghĩ tiếp: “Nguyên nhân đưa đến thân bệnh này, hoặc là nghiệp báo quá khứ đến thời phải chịu, hoặc là chướng duyên của đời hiện tại, thuốc men chẳng thể trừ tận gốc, chỉ có tin sâu nhân quả, sám hối tội nghiệp, tu tập thiền quán, từ tâm không khổ để khiến thân không khổ.”
Tu-bồ-đề thiền quán và chánh niệm như thế, lập tức cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng tự tại, không còn chút bệnh nào cả.
Ngay lúc ấy, Thiên Đế Thích dẫn thêm năm trăm thiên nhơn và rất nhiều nhạc thần, từ trên không bay xuống Kỳ-xà-quật. Thiên Đế Thích liền bảo nhạc thần tấu khúc ủy vấn. Nhạc thần vâng lệnh đến trước Tôn giả khảy đờn lưu ly. Năm trăm thiên nhơn đồng ca rằng:
Tôn giả, đức vọng như trời cao thay!
Tôn giả, tu hành như trường thủy thay!
Qua khỏi bể sanh tử,
Tiêu dứt lửa hữu vi,
Già bệnh thống khổ đều đoạn trừ,
Hành nghiệp nếu sám trừ,
Cấu uế mới diệt hết,
Nguyện tôn giả thể ngộ từ thiền định.
Tôn giả, bệnh khổ liền tiêu trừ!
Tôn giả, thân người được lành bệnh.
Tấu khúc chấm dứt, tiếng ca vừa ngưng, Thiên Đế Thích mang quyến thuộc đến đảnh lễ Tôn giả. Tu-bồ-đề từ bi đáp lễ và khen rằng:
– Khúc ca và nhạc điệu của các ông thật là vi diệu hòa ca!
– Chúng tôi xin thỉnh vấn Tôn giả, hiện thời bệnh của Ngài còn hay hết? – Thiên Đế Thích cung kính hỏi thăm.
Tôn giả bèn bảo vua trời rằng:
– Các pháp từ nhân duyên sanh ra, các pháp lại theo nhân duyên mà diệt. Nhân duyên hòa hợp thì pháp thành, nhân duyên ly tán thì pháp bại hoại tan rã.
Các pháp cùng nhau rối loạn, các pháp cùng diệt, trong pháp sanh pháp, mỗi pháp tự nó có quả báo nhân duyên. Pháp hắc dùng pháp bạch đối trị, bạch pháp dùng hắc pháp đối trị. Cũng như bệnh tham dục, cần dùng quán bất tịnh để đối trị, bệnh sân nhuế dùng tâm từ bi đối trị, bệnh ngu si dùng Trí tuệ Bát-nhã đối trị.
Tất cả trên thế gian đều là không, chẳng có tướng ngã, chẳng có tướng nhân, không có phân biệt nam nữ, không có phải trái chẳng đồng, tất cả là pháp nhĩ như thế. Các ông thấy kia, gió dông thổi ngã đại thọ, hoặc là sương tuyết làm héo nụ hoa, làm cho cây cỏ khô gãy, như khi gặp gió xuân mưa nhẹ,ï thì tự nhiên khôi phục lại mầm sống. Các pháp rối loạn cũng có khi tự bình định.
Một chút bệnh tật của thân tôi, đó là khi các pháp rối loạn, có thể dùng pháp thủy cam lồ của đức Phật và pháp thiền quán như gió xuân, bệnh của tôi lại chóng lành mạnh. Đa tạ các vị cực nhọc đến đây, hiện tại thân tâm tôi rất an ổn tự tại.
Trời Đế Thích nghe xong rất hoan hỷ, đảnh lễ Tôn giả và cùng các thiên nhân trở lại cõi trời. Tu-bồ-đề nhìn theo họ và ngâm:
Thế Tôn khai thị chúng ta,
Bệnh khổ, pháp Phật mới hay trị lành.
Chẳng cần đợi bệnh lo tu,
Bình thường cốt yếu văn tư rồi hành.
Cơ duyên chứng ngộ sẵn dành,
Sám hối nghiệp chướng mới đành an tâm.
Tin lý nhơn quả thậm thâm,
Tích chứa phước huệ để tăng đạo mầu.
Đó là diệu dược trong đời,
Trị lành mọi bệnh mọi thời khổ đau.
12- XƯƠNG MINH LÝ KHÔNG TRÊN HỘI BÁT-NHÃ
Tu-bồ-đề tuệ KHÔNG sâu dày, chẳng những có thể khám phá những lời khen chê của thế gian, giải thoát mọi ràng buộc của vật chất mà cũng có thể dùng trí Bát-nhã và thiền quán để giải trừ bệnh khổ của thân tâm.
Một hôm, trên hội Bát-Nhã, đức Phật bảo Tu-bồ-đề:
– Tu-bồ-đề! Ông rất có biệt tài, thể hội sâu xa lý chân không. Hôm nay, các vị Bồ-tát nhóm họp nơi đây, ông có thể giải thuyết pháp tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật cho họ, để giúp cho sở học của các vị ấy thêm đầy đủ, để cùng nhau nỗ lực tinh tấn!
Phật nói như thế, chúng hội tại tòa đều biết pháp môn Bát-nhã là pháp môn thậm thâm huyền diệu, mọi người đều khởi nghĩ: “Tôn giả Tu-bồ-đề có thể dùng Trí tuệ biện tài của mình để tuyên thuyết pháp vi diệu như thế chăng? Hay là nương sức oai thần của đức Phật mà nói ra?”
Tu-bồ-đề biết tâm hội chúng bèn nói:
“Từ mệnh của Thế Tôn không thể cãi lại, chúng đệ tử mỗi khi thuyết giáo, không kể là giáo pháp cạn sâu, như nếu nói được khế lý, khế cơ đều là nhờ oai thần của Phật. Nương sức thần của Ngài mà nói pháp, khuyên người tu học mới là đạt được bổn thể của pháp, mới là tương ưng với thật tướng các pháp, mới có thể thông đạt được tâm ý của Thế Tôn.
Hôm nay tôi nương oai thần của Phật, tuyên thuyết về lý tương ưng của Bát-nhã ba-la-mật trong sự tu học đạo Bồ-tát, đó chẳng phải là sức Trí tuệ biện tài của tôi.
Lời nói của Tu-bồ-đề rất khiêm cung, Tôn giả nói xong lại đảnh lễ đức Phật và thưa:
– Bạch Thế Tôn! Đệ tử vâng lời dạy của Ngài, nói về pháp tương ưng giữa Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật đa, nhưng có pháp nào tên là Bồ-tát ư? Pháp nào gọi Bát-nhã ba-la-mật ư? Con chẳng thấy có pháp tên gọi là Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp tên Bát-nhã ba-la-mật. Trên danh xưng của hai pháp ấy, con cũng chẳng phân biệt. Con dùng nhận thức này mà nói về sự tương ưng giữa Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật. Bạch Thế Tôn! Cung thỉnh Thế Tôn từ bi khai thị trước, con có thể làm đầy đủ sở học cho các Bồ-tát chăng?
Đức Phật hoan hỷ trả lời:
“Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát chỉ có danh từ Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật cũng chỉ có danh từ Bát-nhã ba-la-mật, có danh xưng Bồ-tát và Bát-nhã cũng chỉ là danh xưng mà thôi. Điều ấy vốn không sanh chẳng diệt, tuy nhiên để tiện nói bày mới giả lập danh xưng.
Giả danh ấy, không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không ở khoảng giữa, xưa nay là bất khả đắc. Thí như nói rằng “ngã” cũng chỉ có giả danh, bổn thể của ngã xưa nay vốn chẳng sanh diệt. Các pháp hữu vi như mộng, như tiếng vang, như hình bóng, như huyễn hóa, như sóng nắng, như trăng dưới nước. Do đó, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát muốn chứng đắc pháp bất sanh bất diệt, cần phải tu học giả danh và giả pháp của Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật.
Tu-bồ-đề! Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thường và vô thường, vui và khổ, ngã cùng vô ngã, không với bất không, hữu tướng và vô tướng, hữu vi và vô vi, cấu và tịnh, sanh cùng diệt, thiện với ác, hữu lậu và vô lậu, thế gian cùng với xuất thế gian, luân hồi với Niết-bàn, đều là không thể chấp trước phân biệt, và tất cả pháp khác đều như thế cả.
Này Tu-bồ-đề! Vì sao nói như thế? Khi Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật, không nên đối với các pháp khởi tưởng phân biệt, nên trụ nơi không, trụ nơi vô phân biệt. Bồ-tát tu sáu pháp ba-la-mật và những hạnh khác không thấy có tên gọi Bồ-tát, cũng không có tên gọi Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát chỉ nên cầu Nhất thiết trí, biết tất cả là thật tướng các pháp, thật tướng ấy cũng chẳng nhơ chẳng sạch.
Nếu như Bồ-tát hay y như thế mà tu tập Bát-nhã ba-la-mật, biết danh tướng đều là quyền xảo giả lập, thì đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả các pháp khác đều chẳng sanh chấp trước, có Trí tuệ cũng không chấp trước, có thần thông cũng không chấp trước, đối với tất cả mọi thứ đều không chấp trước, vì sao vậy? Vì nếu có chấp trước đều là bất khả đắc.
Tu-bồ-đề! Tu Bát-nhã ba-la-mật như vậy, đối với tất cả pháp không chấp trước, mới hỗ trợ hoàn thành công tu Bát nhã, mới tấn nhập hành giả vào chánh vị, mới có thể trụ ở địa vị bất thối, đầy đủ thần thông, dạo chơi các cõi Phật, hóa độ lợi lạc chúng sanh, trang nghiêm Phật độ, tự mình an trụ nơi cảnh giới tự tại.
Tu-bồ-đề! Sắc là Bồ-tát ư? Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát ư? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Bồ-tát ư? Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức là Bồ-tát ư? Người xa lìa hết thảy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức là Bồ-tát ư?”
– Bạch Thế Tôn! Tất cả những thứ kể trên đều chẳng thể gọi là Bồ-tát.
– Tu-bồ-đề! Ông nói những thứ ấy không phải là Bồ-tát, vì cớ gì? Có thể nói rõ được chăng?
– Bạch Thế Tôn! Chúng sanh xưa nay, là chẳng thể biết, chẳng thể được, không kể là thứ pháp gì cho đến Bồ-tát đều là như thế. Nói có pháp ấy, nói không có pháp ấy, và nói xa lìa tất cả pháp tánh ấy, đều chẳng thể gọi là Bồ-tát.
Đức Phật nghe Tu-bồ-đề trả lời, rất vừa ý khen rằng:
– Đúng vậy! Này Tu-bồ-đề, gọi là Bồ-tát, gọi là Bát-nhã ba-la-mật đều là bất khả đắc, Bồ-tát tuy tu tập, mà vốn không tu tập. Tu-bồ-đề! Ta lại hỏi ông: Các pháp sắc, thọ,ï tưởng, hành, thức v.v… là nghĩa Bồ-tát chăng?
– Bạch Thế Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v… đều chẳng phải là nghĩa Bồ-tát.
Tu-bồ-đề hiểu sâu rõ ràng, đáp lại như thế. Đức Thế Tôn hoan hỷ lại hứa khả cho Tôn giả:
“Tu-bồ-đề! Ông nói rất đúng! Khi Bồ-tát tu tập Trí tuệ Bát nhã, sắc, thọ, tưởng, hành, thức các pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc hữu vi hoặc vô vi v.v… đều là bất khả đắc. Bồ-tát nên dùng tâm như biển rộng trời không để tu tập Bát nhã.
Này Tu-bồ-đề! Ông nói ông không thấy có pháp gọi là Bồ-tát và tên Bồ-tát, pháp cùng với pháp giới, pháp giới cùng với nhân giới, và ý giới v.v… Những pháp tương đối ấy đều đối lập nhau. Vì cớ sao? Lìa hữu vi nói vô vi cũng không đủ, lìa vô vi, hữu vi cũng không thể thành lập. Tu-bồ-đề! Bồ-tát tu tập Bát-nhã như vậy, không thấy một pháp nào, mới có thể không còn sợ hãi, tâm không trụ nơi pháp, mới không hối hận về sau. Như lời ông nói, Bồ-tát như thế mà tu tập Bát-nhã, cũng không được tên gọi Bồ-tát, đó mới thật là Bồ-tát, thật là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó mới là giáo pháp của Bồ-tát nói ra.”
Trong số ngàn vạn thính chúng tại hội Bát Nhã, vì các đại Bồ-tát thuyết giáo, đức Phật và tôn giả Tu-bồ-đề một vấn một đáp như thế, vì chân lý “KHÔNG” sâu xa vi diệu ấy, triết học của KHÔNG, chỉ có Tu-bồ-đề mới có thể hiểu sâu, thể chứng và giải rõ. Rốt cuộc, thanh danh Giải Không Đệ Nhất của Tôn giả được tôn kính trong khắp Tăng chúng!
Phật pháp rất cao sâu, rất u huyền, rất rộng lớn, chúng ta muốn thật sự hiểu Phật pháp, nên noi gương tôn giả Tu-bồ-đề.
Nguồn: Thuongchieu.net
COMMENTS