PHẨM 7
Chánh Văn:
Phóng tứ đại, mạc bả tróc
Tịch diệt tánh, trung tùy ẩm trác
Chư hạnh vô thường nhất thiết không
Tức thị như lai đại viên giác.
Dịch Nghĩa:
Buông bốn đại đừng nắm bắt
Trong tánh lặng lẽ tùy ăn nuốt
Các hạnh vô thường thảy toàn không
Đấy tức như lai đại viên giác
Buông bốn đại đừng nắm bắt
Trong tánh lặng lẽ tùy ăn nuốt : Ngay đây, sư bảo chúng ta buông bỏ tứ đại xuống đừng chấp giữ thì được tự do, tự tại. Đây là một điều tất cả chư tăng, ni phật tử người tu theo Phật đạo ai cũng biết cái giáo lý đó. Nhưng có mấy ai lại làm được chuyện đó. Vì ai cũng bảo thủ cái thân mạng này, cái ý niệm này nó nằm ngay tại mình. Nó hiển hiện như vậy đó. Cho nên, mọi người chúng ta đều cho đó là thật cả. Tay này đụng chạm vào vật mềm thì êm dịu, cả đầu, mình chân cũng vậy. Hằng ngày, mọi ý niệm đến trong từng giờ, từng phút, cái đầu, tâm thức, ý thức, trí tuệ ngay đó đều phân biệt giải bày rất rõ ràng rành mạch từng vấn đề. Diễn tiến ý niệm như thế đó, mà bảo thân tứ đại này là giả hợp. Bảo rằng hãy bỏ nó đi thì đó là một điều khó tin, khó làm đối với mọi người. Những hiện tượng trên, nó đều thuộc về phần thô. Còn người tu càng đi sâu vào nội thức thì cái ngã, cái tứ đại trên nó biến hiện rất vi tế. Tất cả những sự kiện vui buồn, đau khổ thiện ác diễn biến ra người hành giả họ đều xả bỏ tất cả. Nhưng họ chỉ cần có một chút cảm nhận là điều đó đúng, vui thì ngay đó người hành giả đó đều không bỏ qua được ngã chấp, pháp chấp tứ đại trên. Nó đi càng sâu vào nội thức thì mọi pháp, mọi ý niệm nó thật là vi tế, nhỏ niệm, khó nhận thấy nó. Cho nên, có những người bỏ cả cuộc đời họ tu học nhưng cuối cùng vẫn ngã chấp, pháp chấp như thường. Cả cuộc đời sống chung với kinh sách, với giáo lý nhưng cũng không thoát qua cái gọi là “Sở tri chướng”. Những niệm khởi vi tế trong tâm của người hành giả khi họ sống với tuổi thơ va chạm, học hỏi với Đạo pháp đến lúc già đi những hành trang nghĩa lý, những hàng trang hiểu biết lấy cái lý đó để sống thì một lúc nào đó họ chỉ mỉm cười tự đắc sự thông thái, học rộng, hiểu nhiều. Họ thấy họ cao rồi cũng có người do sở tri chướng đó họ biết nhiều rồi tự cho mình là nhẫn nhục tầm thường thì hai cái đó vẫn phải bị vào ngã chấp, pháp chấp tứ đại không khác.
Một cơn gió lùa của tuổi thơ, một cơn gió lùa lúc về chiều già nua nó vẫn làm rợn mình lên. Nó đem đến cảm xúc nóng lạnh dễ chịu thì đó cũng là tứ đại thôi. Khi chúng ta cảm nhận lấy nó, ngay lúc đó thì tứ đại vẫn là tứ đại. Đó là những người tu học thực hành Phật đạo còn những người bình thường như chúng ta hằng ngày va chạm cảm xúc, tác tạo đủ các pháp. Toàn bộ sự suy tư, tác tạo những ý niệm đều do tứ đại này giả hợp tạo cho chúng ta. Cả ngay chỗ đó, chúng ta khó thoát qua vì chúng ta có biết mình là cái gì? Từ đâu đến và đi về đâu, hoàn toàn chúng ta vô minh. Ở trong những con người đó có một người nghe được tiếng chuông cảnh tỉnh của Đức Phật, tri kiến thấy được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang giơ lên một cành hoa. Đức Ca Diếp đang mỉm cười. Có một nụ cười đó nó luôn nở trên trong tấm lòng của những người con lưu lạc xa quê, những người con cùng khổ mang thân tứ đại này đi làm nô lệ, tạo sự cùng khổ lê lếch khắp nơi. Người đó họ quên rằng bên vạt áo của họ đã có sẵn viên ngọc quí giá ngàn đời từ vô thỉ, vô chung nó đã hằng có mà Đức Phật là đấng đại từ phu đã trao lại cho. Mà người đó cứ mãi vô minh bỏ quên hạt ngọc đó cho đến một ngày nọ đại hội linh sơn, đại hội của lòng từ bi trí huệ vô thượng, Ngài Ca Diếp đã nhìn thấy viên ngọc đó và nụ cười của muôn thưở đã hiển hiện. Âm thanh, âm điệu vô tướng của nụ cười đó nó có khắp mọi nơi. Âm thanh, âm điệu vô tướng của nụ cười đó hiện nay nó cũng đã hiển hiện lên “Úm chiết lệ chủ lệ chuẫn đề ta bà ha. Bộ lâm” Nó đã cười trong Tâm Mật. Một nụ cười ngàn đời không bao giờ tắt lịm.
Người hành giả tu bí pháp Mật chú Chuẩn đề, họ nhìn thấy thân này do tứ đại đất, nước, gió, lửa. Những vật cứng xương tóc là đất, nước là máu, mủ, tân dịch, di chuyển chuyển động là gió, sự nóng ấm áp trong cơ thể là hỏa. Bốn tính chất đó bản chất nó khác nhau, có lúc nó đi mọi hướng, bốn hướng khác nhau. Có lúc nó cũng hòa hợp xây dựng do sự sinh khắc đó mà nó làm cho ta khó chịu rồi dễ chịu, sanh, lão, bệnh, tử nó cũng đều nằm trong đó. Nóng giận, tham, sân, si đều có lửa, lạc thú êm dịu cũng có sự mát dịu – nước. Sự thô cứng chuyển động trong đó có Gió, đất. Khi mọi hiện tượng sanh, lão, bệnh, tử đều có các tướng, có các cảm xúc tứ đại nóng lạnh trong niệm tưởng đó nó giả hợp rồi hình thành nên vô lượng tướng, vô lượng cảm xúc từ thô đến vi tế. Từ đó, nó tạo tác hình thành nên những vọng niệm, suy tính tinh vi. Khi những hiện tượng hình thành xong, nó được giữ yên vào tàng thức, tưởng chừng như đã mất, đã quên nhưng nó luôn được cất giữ trong đó khi duyên đến nó sẽ hình thành, hình ảnh, cảm xúc, tất cả cảm nghĩ suy tính phân biệt quá khứ trở về hợp cùng hiện tại, phân định, phân biệt rồi vọng niệm đến tương lai, dẫy đầy hình danh sắc tướng, tạo tác thế giới chúng sanh đau khổ thiện ác. Luôn cả núi rừng sông biển cũng đều do cái ta nhận lầm tứ đại là thật, vô minh chấp giữ mà gây tạo nên. Người tỉnh trí ngay đó người ta thấy sự giả hợp của nó. Nó hoàn toàn có trên hình thức giả hợp, tất nhiều khía cạnh, nhiều nội dung, chi tiết, thời gian, không gian mà hình thành chúng. Nhưng ngay chỗ đó, từng cá nhân chi tiết nội dung đó nó không có thật thể nhất định, nó luôn luôn bị chi phối trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai luôn biến chuyển sinh diệt vô thường. Nếu nó có thật thể của nó thì không bao giờ hoại mất cả. Nhưng qua những hiện trạng đó, người hành giả họ thấy trong đó có một cái luôn đi, luôn có sẵn trong vạn pháp sinh diệt đó không mất. Nó hằng có. Nếu nó không hằng có trong vạn niệm, vạn pháp thì cái gì cho thế gian con người biết xấu, tốt, hay đẹp, giả hợp. Cái hằng giác đó không bao giờ biến đổi. Nó biết mà không cái biết trên cái biết đó, tức là nó biết không phân biệt. Ngay chỗ đó, biết mà cũng không có những cảm xúc nóng lạnh, dịch chuyển của tứ đại. Nó luôn cũng ở trong tứ đại đó, trong vạn pháp đó nhưng không phải là tứ đại cùng không ly tứ đại. Đây là một vấn đề bề mặt của nó trên văn tự ngữ ngôn chỉ nhìn nó bằng ngón tay chỉ mặt trăng thôi. Nhưng ở đây, người hành giả Mật chú Chuẩn đề luôn luôn thể hiện nó trong câu “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Họ trong từng ngày, từng giờ phút, trong nội thức của họ luôn thể hiện lên câu Thần chú đó. Họ chỉ biết một pháp đó thôi, ngoài ra không biết một cái gì nữa cả. Nhưng một người dốt, họ cứ ngày tháng như vậy cứ niệm, mỗi niệm đó đến một lúc nó không còn âm thanh, sắc tướng nữa. Chỉ có cái biết “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Cái biết đó nó ở khắp mọi nơi, khắp vạn niệm, nó không riêng cho một niệm tưởng nào cả. Thì ngay đó cũng có cái hằng biết chung cả thì ngay đó cũng có cái hằng biết chung chơn niệm đó. Cái hằng biết chung chơn niệm đó không có một ai làm chủ nó cả không hình danh, sắc tướng nhưng ở mọi nơi đều có nó cả thì không niệm thiện, không niệm ác, không vô ký, không có thời gian và không gian ở đó. Cho nên, nó thường niệm “úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Nó là như thế.
Buông bốn đại, đừng nắm bắt
Trong tánh lặng lẽ tùy ăn nuốt.
Các hạnh vô thường thảy toàn không.
Đấy tức như lai Đại viên giác
Cư Sĩ Thanh Hùng
Pháp Hiệu: TC Trí
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
COMMENTS
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
???
Con nguyện xin chư Phật, chư vị Bồ Tát, con nguyện xin Thầy gia hộ giúp đỡ đệ tử chúng con mong chóng thấy được cái hằng giác vô minh, cái hằng giác ngu si, tà kiến, cái hằng giác hoan hỉ, dục lạc. Con nguyện đi theo dấu chân của Thầy dù có thịt nát xương tan, đổ máu rơi lệ. Đệ tử con nhận thấy nếu không tiến tu thì sẽ không thấy được ánh sáng mặt trời
Con nguyện xin nghe theo thấm nhuần lời Thầy dậy
Con nguyện đem tất cả cái tinh hoa ấy lan toả để Giáo Pháp của Như Lai mãi trường tồn.
Con nguyện đem trí huệ tột cùng này hồi hướng cho tất cả chúng sinh trọn thành Phật đạo.
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường.
???