Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmHướng dẫn pháp Chuẩn Đề

Con đường Vipassana 1 – Quán 32 thể trược cơ thể

Giáo dục của nhà Phật về vấn đề ăn chay với việc bảo vệ môi trường

Khi người hành giả đã thực hiện đạt được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền rồi, thì ngay nơi ánh sáng của quả tứ thiền mà nhập vào quán tưởng, soi rõ 32 thể trược của cơ thể. Người hành giả ngay nơi thân của mình phải tuệ tri thấy biết rõ sự giả hợp thô trước. Trong phương pháp tu học thiền quán Mật chú Chuẩn đề này bao giờ cũng đặt trên nền tảng Hiển Mật viên thông, phải hiểu thấu rõ tự tánh thanh tịnh hằng có lấy căn bản trên để thực hiện phép tu. Ở phương pháp tu này chúng ta phải được thực chứng bằng sự tuệ tri các pháp như thực là phải nhìn thấy từng hạt nhỏ sắc thọ tiềm ẩn bên trong bằng sự trì niệm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm. Lấy mật chú là Đức Phật là một loại trí tuệ siêu thoát soi thấu vạn pháp. Người hành giả cứ an tâm niệm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm, quán tưởng theo phương pháp hướng dẫn, chịu khó, ẩn nhẫn, kiên nhẫn chuyên cần trì niệm sẽ đạt kết quả. Sự tu của chúng ta phải hết sức chịu khó ở thời gian ban đầu, cố gắng trì niệm một ngày phải đạt trên 1080 trở lên, nếu ít quá tâm chúng ta khó thuần thục trong phép quán tu.

Trở lại phép quán 32 thể trược của cơ thể, chúng ta sẽ tuần tự thực hiện 32 thể này. Chúng ta chia ra như sau: chia 20 phần thuộc đại địa trên thân thể, vì đây là những phần dễ thấy trội hơn và 12 phần thuộc thuỷ đại trội hơn ở cơ thể

20 phần Địa đại

I

1. Tóc
2. Lông
3. Móng
4. Răng
5. Da

II

6. Thịt
7. Gân
8. Xương
9. Tuỷ
10. Thận

III

11. Tim
12. Gan
13. Màng Ruột
14. Bao tử
15. Phổi

IV

16. Ruột
17. Trực tràng
18. Vật thực chưa tiêu hoá
19. Phân

20. Óc

12 Phần Thuỷ đại

I

1. Mật
2. Đàm
3. Mủ
4. Máu
5. Mồ hôi
6. Mỡ

II

7. Nước mắt
8. Mỡ mắt
9. Nước miếng
10. Nước mũi
11. Hoạt dịch( nước khớp xương – tân dịch
12. Nước tiểu

Đây là đề mục thiền quán Mật chú Chuẩn đề trên 32 thể trược của cơ thể. Người hành giả điều tức hơi thở ra vào nhẹ nhàng vừa niệm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm, vừa quán chữ “Lam” cho sáng lên nhập vào sơ thiền cho đến tứ thiền. Ngay nơi đây lấy ánh sáng Tứ thiền này quán soi theo thứ tự:

1. Tóc. Người hành giả phải thấy biết tóc của mình từng vị trí một thật rõ ràng, người hành giả lấy điểm sáng tợ tướng “ Lam” tự di dời lên trên đỉnh đầu của mình. Từ ngay đỉnh đầu quán xuống, cũng như nước chảy chầm chậm từ đỉnh đầu xuống khắp đầu. Người hành giả khi quán sát như vậy phải biết tam tướng là: vô thường, khổ, vô ngã. Tóc khi trẻ mạnh nó xanh đen huyền óng ánh đẹp, theo ngày tháng nó vàng, trắng, bạc, sức khoẻ suy xuống để rồi cuối cùng bệnh rụng cuống, chết bỏ cả thân mạng. Phải nhìn thấy sự sanh dị hoại diệt trên từng sợi tóc đó, phải biết gì sau khổ. Vì tóc xanh đến bạc rụng mất, một sự sanh diệt vô thường không giữ được nên khổ, và từ nơi ấy chúng ta thấy nó không có thực thể vô ngã. Vậy tóc nào của ta, chính ta, của ta, của người. Người hành giả phải biết đât là phương pháp thiền quán Vipassana của Đức Phật.

Qua nhìn thấy bản chất của chúng là vô thường , khổ, vô ngã hoàn toàn không có thực thể cái gọi hoàn toàn không thực thể đó cũng chỉ là cái “danh”. Cái tóc biến đổi hình tướng như vậy gọi là “ sắc”. Bài này bắt đầu tôi sẽ gợi lên từ “ Danh, Sắc” để nói theo giáo pháp của Đức Phật chỉ vạn pháp, và để giúp cho hành giả biết đâu là “ danh”, đâu là “ sắc”. Trong những chương mục tới, khi người hành giả đã nhìn thấy biết “ danh, sắc” không thực thể, thì ngay khi thực hiện pháp tu phải nhẹ nhàng thoải mái, không bị bó buộc chấp giữ, buông bỏ. Chỉ thấy biết thôi trên bất cứ vấn đề nào chúng ta thực hiện phép tu như vậy là chúng ta đang sống, tập cách sống thực tại trong kinh Bát nhã Kim cang. Bát nhã Kim cang hay tự tánh thanh tịnh nó không có một pháp nào và cũng không thiếu một pháp nào cả ( viên giác), ( viên tuệ). Cho nên ở đây chúng ta khi thấy biết như thực là, thì cứ Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm, không cần phải làm tiếp thêm một vấn đề nào nữa cả. Thần chú Chuẩn đề hoàn toàn vô nghĩa, vô nghĩa mới xứng với tự tánh thanh tịnh, vô nghĩa mới có đầy đủ vạn pháp. Khi người hành giả trì niệm như vậy với một tâm thanh tịnh không dính mắc, thì ngay nơi ấy năng lực của thần chú Chuẩn đề như một kim chỉ nam, mật chỉ chúng ta đến sự giải thoát an tịnh đạt thành. Ngay nơi đây quí vị sẽ thấy sự đặc thù, hương thơm vi diệu của một loại hoa Mật tông. Tất cả các pháp môn khác đều phải có một vị thầy hữu hình hướng dẫn kèm chỉ bày. Ở đây Mật tông cũng vậy, cũng có thầy hữu hình kèm chỉ hướng dẫn nhưng đặc thù hơn Mật tông sẽ có những vị thầy vô hình, những vị thầy ấy là những vị Hộ pháp, Bồ tát, và chư Phật luôn gia hộ, mật chỉ dẫn cho chúng ta. Sự an toàn bén nhạy sẽ đạt thành tốt, chỉ cần người hành giả y theo pháp đừng vọng tâm thì sự đạt thành sẽ nhanh và tốt đẹp.

Trở lại phép quán tóc, người hành giả cứ liên tục miệng niệm chú, tâm thức duyên vào tóc, trong quá trình quán người hành giả nên xen vào những hạt sáng chữ “ Lam” để nhằm tăng lực quán của mình mạnh hơn. Khi chúng ta đã thực hiện quán tóc của mình mạnh hơn, khi chúng ta đã thực hiện quán tóc khắp đầu không bỏ xót một vị trí nhỏ nào cả. Đạt được như vậy tiếp tục quán “Lông”.

2. Quán lông. Xin nhắc lại trong bất cứ lúc nào người hành giả cũng phải biết niệm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm, không bỏ quên được. Khi chúng ta vào quán “ lông” thì có những vị trí như lông mày, lông mi, lông lỗ tai, lông mặt, lông trên da tay, da chân, trên cơ thể từng vị trí. Quí bạn phải quán thật rõ và phải đặt chúng trên tam tướng; vô thường, khổ, vô ngã. Phải thấy sự sinh diệt biến đổi của chúng, chúng đem đến cảm giác thọ lạc, thọ khổ, mất còn, tốt xấu…Hãy thấy cho nó thật rõ ràng Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm

4. Quán móng
. Để tiếp theo phương pháp tu học, tuần tự chúng ta sẽ thực hiện tiếp phép quán “móng”. Trong cơ thể chúng ta về đề mục quán móng thì có móng tay ( 10 móng tay) , móng chân ( 10 móng chân). Chúng ta lần lượt quán từ móng ngón tay cái đến mong tay út ở tay trái, rồi đến móng tay ở tay phải tiếp tục chúng ta quán đến móng ngón chân cái đến ngón chân út ở chân trái, rồi đến mong ngón chân phải. Chúng ta phải thực chứng nhìn thấy chúng phải triển trong 3 tướng vô thường, khổ, vô ngã. Nó vô thường như từ móng ngón ngắn đến tài, tức là nó đi từ sự thành, trụ, dị, hoại, diệt. Bản thân chúng cũng phải chịu trong sự viến đổi vô thường; sanh, lão, bệnh, tử. Vô thường này nó thể hiện trong từng chi tiết nhỏ rất vi tế trong cơ thể. Những hạt sắc vi tế rất nhỏ cũng phải như vậy. Nếu chúng ta không tỉnh giác nhìn thấy như là, như vậy thì sẽ khổ. Nếu không tỉnh giác chúng ta sẽ khổ mãi, vì tất cả những sắc, danh ( tâm) đều vô ngã cả. Người hành giả tu quán như vậy, nhưng trong từng thời gian nhỏ nhiệm vi tế trong tâm đều phải thấy nghe biết Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm. Khi đã quan sát móng cong chúng ta tiếp tục quán “ Răng”

5. Quán răng – răng như thế nào? Tất cả hành giả đều biết rõ cả. Nếu chúng ta tỉnh giác ngay thực tại để quán sát nó, chúng ta phải biết tất cả những chiếc răng đang ở trong miệng, trong thân. Chúng ta đều được kết hợp bằng những vi sắc rất nhỏ kết hợp thành. Chúng cũng trải qua vô thường, khổ, vô ngã. Người hành giả phải thấy những chiếc răng ấy được hình thành ( mọc răng), từ lúc nhỏ đến trung niên, đến già chết người hành giả phải thấy chúng trong 3 tướng vô thường, khổ, vô ngã. Những chiếc răng ban đầu được hình thành chúng rất mỏng manh ở tuổi thơ bị sâu răng, bị gãy rụng, chúng gây ra sự đau nhức đêm đến cái khổ cho con người rồi chúng trụ, dị hoại diệt. Trong từng giai đoạn của thời gian, chúng ta không thể giữ mãi những chiếc răng cho rằng xấu, tốt, vì tất cả chúng đều do sự giả hợp hình thành vô ngã. Những mốc thời gian trong một cuộc đời của chúng ta từng giai đoạn dài ngắn cho đến từng sát na chúng cũng đều trải qua thực tại trên. Người hành giả khi chúng ta tu phải hết sức tỉnh giác, phải nhìn thấy như vậy để biết đây không phải là ngã, đây không phải là chính mình, đây không phải là của mình. Khi người hành giả đã quán sát xong răng thì tiếp quán đến “ da”.

6. Quán da: Đề mục này, người hành giả cũng phải biết thấy từ ấu thơ có làn da như thế nào, đến tuổi thành niên, trung nuên, già chết như thế nào? Người hành giả phải biết từ ấu thơ có làn da mềm mịn non tơ, đến thành niên da căng mịn, hồng hào đầy sức sống, trung niên làn da bắt đầu sạm màu, khô, rồi đến già da nhăn nheo, màu sắc không con căng mịn như lúc nhỏ. Phải thấy rõ chi tiết như vậy để biết sự biến đổi vô thường, thành trụ, dị, hoại, diệt hình thành sanh lão bệnh tử. Tất cả cũng được hình thành bằng những vi sắc thể cực nhỏ ( giả hợp không có thực thể vô ngã). Chúng thật mỏng manh luôn chịu những áp lực va chạm ở bên ngoài, tứ đại bên ngoài cùng tứ đại bên trong. Chúng chịu ảnh hưởng ở sắc dưỡng chất, vật thực. Con người ăn ngon, dinh dưỡng nhiều, vật thực lành đem đến làn da căng sáng mịn đầy sức sống, ngược lại sẽ bị bệnh dẫn đến da xấu xí. Da mặc dù là một phần của cơ thể nhưng cũng phải bị chi phối ở thành, trụ, dị, hoại diệt, sanh lão bệnh tử. Người hành giả phải biết thấy như vậy trong thời gian quan sát người hành giả phải xuyên suốt niệm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm. Sau khi quán “ da” xong người hành giả phải quán tiếp “ thịt”.

7. Quán thịt: thịt màu đỏ, mỡ màu vàng được nằm dưới da hay được bọc da bao bọc lấy nó. Người hành giả cũng phải kiên trì chịu khó quán từ lúc sơ sinh cho đến già chết. Khi còn nhỏ thịt ít, cơ thể nhỏ thấp thịt mềm, đến thành niên, trung niên thịt nhiều, cơ thể cao to hơn, thịt cứng dày hơn, đến già thịt bắt đầu tóp lại dần dần tiêu đi nhẹ hơn, cơ thể teo lại, đến khi chết thịt mất dần mềm nhũn màu đen sạm vàng. Chết tím đen lạnh thịt cũng hợp thành từng vi thể sắc mà hình thành, không có thực thể. Tất cả vi thể sắc đó luôn biến đổi theo từng sát na thời gian. Chúng cũng phải bị vô thường biến đổi chi phối. Người hành giả tĩnh tâm nhìn thấy như vậy cho rằng đây là thân tôi, đây là ngã tôi, đây là của tôi, thì sẽ khổ mãi. Cái khổ ấy là do sự vô minh không thấy, không hay, không biết sự vô thường, khổ, vô ngã. Quán xong thịt lại tiếp quán “ Gân”.
8. Quán gân: Gân là những sợi bao bọc khắp cơ thể chúng co giãn tác dụng để bao bọc giữ cơ bắp, khớp xương…người hành giả cũng phải quán biết chúng từ nhỏ đến thành niên, trung niên, cho đến già bệnh chết. Khi còn nhỏ trẻ thơ gân mềm dẻo dễ co duỗi, đến thành niên gân bắt đầu cứng dần, đến trung niên gân cứng sự co duỗi kém mềm dẻo khó khăn hơn, cho đến già chết gân cứng rút lại khó co duỗi. Trong quá trình sống của một cá nhân chúng ( gân) cũng phải bị tác động bởi sự vô thường, khổ, vô ngã,thành,trụ, dị, hoại diệt cùng sanh lão bệnh tử. Những sợi gân nhỏ chằng chịt khắp cơ thể , chúng sẽ bị, dễ bị những sự tác động từ bên ngoài như; thời tiết – thời tiết nóng lạnh bệnh tật đến làm ảnh hưởng đến sự vận động co duỗi đi đứng nằm ngồi của cá nhân người, vật thực dinh dưỡng cũng ảnh hưởng đến gân, thiếu dinh dưỡng, thiếu vật thực bổ dưỡng cũng bị ảnh hưởng. Cuộc sống của chúng cũng rất mong manh, rồi những sự tác động của ngoài xã hội, ngành nghề tai nạn cũng mang đến sự khổ cho gân. Người hành giả phải thấy biết như vậy mà tỉnh giác tu học, để bào mòn ngã, cùng ngã sở. Qua những phép quán cùng những đề mục trên, người hành giả chúng ta nên thấy thực chứng rõ ràng vì sao Đức Phật bảo rằng vô ngã, vô tướng. Vì tất cả chúng đều do sự duyên hợp mà hình thành, chúng không có thực thể nhất định, nên Đức Phật mới gọi là vô ngã giả hợp, người hành giả phải thực chứng điều đó để có một lý pháp vững chắc mà tiến tu.
Ở pháp tu này, quí bạn phải thực hành, thực chứng chứ không nên tu trên một khái niệm. Nói vô ngã, mà không biết được lý, tưướng như thế nào. Hãy thực hành bằng sự quán sát như là, như vậy với nhất tâm Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm.

 

cư sĩ Thanh Hùng

Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

COMMENTS

WORDPRESS: 7
  • comment-avatar

    Để thực hành thiền quán 32 thể trược này đòi hỏi ở người hành giả một sự nhẫn với pháp, một sự tinh tấn với pháp xuyên suốt cùng pháp là sự thiện xảo khéo léo với pháp. Phải chuyên cần xuyên suốt như vậy mới từng bước được sự chỉ bày của chư vị mà cọ xát cái tâm ý thức phân biệt thấy sự vô minh của tâm phân biệt che đậy biện hộ, bảo vệ, dụ dỗ đưa cái bản ngã vô minh trở thành chân lý….ở chỗ này khi thực hành quán xét được như vậy thì thấy bản chất vô thường, giả hợp của thân cũng như giả hợp của pháp mà dẫn được tịnh hóa những nghiệp lực cái thấy biết do nghiệp bất tịnh, và cái thấy biết do nghiệp được tịnh hóa. Cùng là bản chất của tâm nhưng cái thấy biết này nó khác, nó rỗng rang nhẹ nhàng, không bám víu vào thân bồi đắp thân giả hợp, nguồn dinh dưỡng tham, sân, si, ái luyến kia dần dần được trừ bỏ thì bản thể chân thật kia của tâm người hành giả trực ngộ mới ngỡ ngàng …
    Xưa nay bản tánh tự nhiên là như vậy, do ta tự kiến tạo, do ta tự che mờ ánh sáng đó …tất cả đều là cái ta này.

    Thầy chỉ bày phương pháp thấy thân là giả, pháp là giả hợp hãy tận sâu quán soi nó để thấy Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni pad Me Hum. là chiếc thuyền chuyên chở ta vượt biển xuyên đại dương. Ngay nơi đó Đức Phật Mẫu luôn trong mỗi hành giả nâng đỡ, gia hộ, chỉ bày tịnh hóa thân khẩu ý để mỗi hành giả đó thể hiện hóa thân, pháp thân ngài nơi tâm phật ấy.

    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni pad Me Hum

  • comment-avatar
    Kim Cang Phổ Tạng 4 năm ago

    Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm
    Om Ma Ni Pad Me Hum

  • comment-avatar
  • comment-avatar
    kimcangdaonang 4 năm ago

    Giáo lý của Đức Phật thật là mầu nhiệm và vi diêu qua lời kinh của Thầy.Phép quán 32 thể trước của thân.con lại nhớ những lần Thầy chỉ dạy cho chúng con là các anh chị tụng niệm thần chú như một con két tụng niệm không có một tí nào cảm xúc với thần chú.chúng con ngồi đó tụng niệm thần chủ những tâm thức của chúng con thì phóng đi nơi khác tâm đâu có an trụ trong lời kinh tiếng chú của mật chú Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.ở thời điểm đó con đâu có biết là cái thân này là giả đâu con chưa có một ít kiến thức nào để hiểu về bản thân,mà chúng con được nghe Thầy giảng là cái thân là một sự giả hợp đó các duyên hợp lại mà thành thân tứ đại.Thầy giảng xong chúng con lại quên không ghi nhớ trong tâm.do chúng con sống không tỉnh thức đề tâm thức vọng động chạy theo dục vọng của bản thân lên không nhớ lời Thầy chỉ dạy để bị lạc mất chơn tâm lên tu hoài vẫn chưa giác ngộ được những lời thầy chỉ dạy.

    Thầy thường chỉ dạy cho chúng con là các anh chị thật có phước gặp được Thầy gặp được pháp mà không biết tận dụng để học hỏi và tu học để sau qua đi thì sẽ hối hận.thầy chỉ dạy như thế chúng con cũng có những suy tư và suy nghĩ về những lời Thầy chỉ dạy.do chúng con chưa có một lòng tôn kính Đức Phật chưa đặt niềm tin chọn vẹn Đức Phật vào Thầy lên chưa có một sự quyết tâm tìm tòi nghiên cứu học tập cho sự tu học và  huân tập trì niệm mật chú không được xuyên suốt cho lên nền tảng hiểu về lý đạo rất ít.nhờ vào những duyên lành Thầy kiến tạo cho chúng con được tiếp xúc và cọ sát tâm thức ở những nơi có linh khí sinh khí của chư tổ để tạo duyên lành cho chúng con trên bước tu học 

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
    Nam Mô Bổn Tôn Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề 
    Nam Mô Bổn Sư Kim Càng Kiết Tường 

    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm 
    Om Ma Ni Pad Me Hum
    Úm Xỉ Lâm 
    Úm Lam 
    Úm A Hùm 
    A Mi Đà Phật 

  • comment-avatar

    Thiền quán Vipassana qua Tứ Đại – Đất nước qua lời Thầy giảng giải con hiểu được Thầy đang tiếp dẫn người hành giả vào con đường chân chánh thiền quán mật chú Chuẩn Đề một con đường cần rất nhiều sự thực hành chuyên tâm thực chứng ngộ nhập trong giáo pháp của Đức Phật bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng đều cùng quay về một hướng con đường Chánh giác. Người hành giả quay về gốc rễ đầu tiên ngay nơi thân tâm khi được sinh ra lớn lên già đi quán sự sinh diệt ấy để thấy được những vô thường của cuộc đời, thấy cái tướng đó không có thật không hiện hữu lâu dài, không phải là thật ngã để bỏ đi cái ngã chấp lâu nay từ đó mới có lòng tin rằng Thầy luôn khuyên dạy người hành giả nên ngồi xuống gia tăng công phu để tự mình thực chứng pháp thiền quán để thấy được lý đạo, quán tưởng thông suốt biết rõ chân tướng từng giác niệm hành quán nơi tâm thức bắt đầu từ nơi Địa đại, thuỷ đại chứ không chỉ là nghe và nói ghi nhớ bằng khái niệm. Người hành giả ôm lấy được giáo lý thiền quán vipassasa Đức Phật để lại tâm chuyên chở bằng năng lực của Mật Chú Chuẩn Đề để tỉnh giác trong từng ý niệm thiền quán, tỉnh giác trước những vọng tưởng mông lung không biết lối đi thì ngay đây Mật Chú Chuẩn Đề là ngọn đèn sáng là Đức Phật đưa người hành giả đi, từ sự thực chứng tu hành pháp môn thiền quán vipassana Thầy đã công phu rất nhiều năm đã nắm chắc lòng cốt của phương pháp này. Thầy phát tâm bồ tát đạo phát tâm từ bi cứu độ chúng sinh Thầy đã trao dạy truyền lại cho người hành giả tiếp nối theo sau cùng lời động viên chân tình nhất : “ chỉ cần có lòng tin và nhất tâm thực hành, Thầy đã chỉ dạy đã bày ra rất cặn kẽ từng bước thiền quán một, chỉ cần đọc thôi người hành giả đã thọ nhận được sự tỉnh thức ngay trong từng câu chữ Thầy dạy, nhưng quan trọng hơn hết cả là phải thật sự sống trong thực hành pháp thiền quán này mới hữu ích cho chính người hành giả đó thông giải được thiền lý, định tâm mới phát triển trí huệ, hoá độ chúng sinh và hộ trì Phật Đạo. 
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
    Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường 
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. 

  • comment-avatar

    “Cho nên ở đây chúng ta khi thấy biết như thực là,thì cứ Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm,không cần phải làm tiếp thêm một vấn đề nào nữa cả.Thần chú Chuẩn Đề hoàn toàn vô nghĩa,vô nghĩa mới xứng với tự tánh thanh tịnh,vô nghĩa mới có đầy đủ vạn pháp.”
    Đệ tử đọc bài pháp của Thầy tới,lui mấy lần và cảm thấy tâm đắc với tâm pháp này.Đối với con,đây là chìa khoá để thực hành pháp tu quán niệm của Thầy.Khi đọc qua lần đầu tiên,con chợt khựng lại với câu cú của Thầy “Thần chú Chuẩn Đề hoàn toàn vô nghĩa…”,nghe thật lạ.Vì sao,vì chính trong phép quán cửu tự,tuy không nhiều nhưng cũng có giải thích sơ lược từng chữ,ví như chữ ‘Úm’ là tổng trì chơn ngôn,thâu nhiếp tất cả v…v…Vậy tại sao ở đây Thầy lại bảo hoàn toàn vô nghĩa?Mang sự khúc mắc,tâm khởi niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm….Vọng niệm chợt lắng,1 vọng niệm khác lại khởi lên Tăng ngôn_Tăng chú,Pháp ngôn _pháp chú,Phật ngôn _Phật chú,Tam bảo luân chuyển.À,chẳng phải điều Thầy dạy để buông bỏ sự phân biệt,so sánh hay sao.Trở về với Phật ngôn,Phật chú thì ngay đó nghĩa là gì,ai phân biệt?Bởi ngay chỗ này,Đức Phật dạy chỉ có Phật với Phật mới biết,chúng sanh mê lầm phân biệt nên muôn trùng xa cách.
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.
    Ngay 1 niệm này xứng với tự tánh thanh tịnh.Tuy có khởi quán phân biệt nhưng chẳng rời Diệu quan sát trí,Bình đẳng tánh trí.Tuy ẩn nhẫn kiên trì quán soi,hành niệm nhưng thực ra là vô công dụng đạo,hay như Thầy vẫn thường dạy là “tụi em hãy tập tu như chuyện chơi thôi”.Cái “cuộc chơi” của Thầy,đệ tử cứ tập hoài và biết chẳng hề dễ dàng tí nào.
    Vậy mới biết rằng,ẩn tàng trong mỗi bài pháp là biết bao nhiêu nghĩa lý,pháp hành.Hàng đệ tử chúng con mê mờ,cứ hời hợt đọc lướt qua.Đôi khi thấy hay,đọng lại được chút gì đó,hoặc thậm chí có đôi khi,đọc rồi lại quên rồi.Thật ra,sự tu học của chúng ta cả về pháp hành lẫn pháp lý,cách xa Thầy trời vực,làm sao chỉ đọc hay nghe 1 đôi lần mà thâm nhập tương ưng.Phải kiên nhẫn,ôn cố tri tân,thậm chí phải đọc đi ,đọc lại,chuyên tâm tu trì thì mới dần thấm được.Vậy ra,lâu nay chúng con quá hời hợt,thật sự rất hời hợt.Chúng con thật sự là phụ ân Thầy vẫn cần mẫn,tâm huyết viết và giảng không ngừng để mong chúng con mưa dầm thấm đất.
    Đệ tử xin đảnh lễ tri ân Pháp Bảo Thầy trao.
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.
    Om Mani Padme Hum.

  • comment-avatar

    Như Thầy đã giảng giải “vạn vật hữu vi lẫn vô vi có hình tướng đều chịu quy luật sinh – trụ – dị hoại – diệt” và “vạn pháp cần được quán xét trên tam pháp ấn Không – Vô thường – Vô ngã” để thấy biết sự duyên hợp, không có thực thể và luôn biến đổi. Thân thể của con người cũng vậy, không nằm ngoài quy luật trên và người hành giả cần thực hành quán soi để thấy rõ tam pháp ấn trên đó, để có cái biết về sự ma sát, thọ cảm những thể trược biến đổi. Khi có những cái biết chân thực về sự vô thường của những thể trược đó, người hành giả tự khắc đã vượt qua và không bị những cảm thọ của ái dục, sân hận, si mê chi phối thân tâm trước những hình ảnh, tình cảm luyến ái về cái thân của mình, của người. Họ sẽ bình thản và công bình trước những gì mọi người cho là đẹp, là xấu vì những cảm xúc của thế gian họ đã trải qua, đã biết về cái thân này thật rõ ràng rồi và họ không cần chấp giữ hay buông bỏ thêm nữa, mà chỉ còn lại cái biết đi cùng với thần chú “Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum”…