
Ở phần một ta thấy Đức Quán Tự tại Bồ tát quán soi “Năm uẩn” đều không. Trí huệ “Bát nhã” đã soi thấu tướng của năm uẩn đều không, không có thật tướng luôn do duyên hợp cả.
Chữ không ở đây là do vạn sự, vạn vật, do duyên hợp cả. Do nhiều thứ, nhiều chi tiết, nhiều sự vật duyên hợp (Tu hợp với nhau mà thành hình). Một chiếc bình do công thợ, đất, nước, gió, lửa, trí thức của con người tu hợp lại, duyên hợp lại mà thành. Nhưng thật tế chiếc bình kia không có thật thể của nó nên gọi là “Không”. Vào phần hai này sẽ thấy không với sắc không khác luôn cả Thọ, tưởng, hành, thức cũng không khác không.
“Xá lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị” – “Xá lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế”.
Như đoạn phần trên, ta đã nhìn thấy tất cả sự vật, vạn vật đều do duyên hợp cả. Nó không có thật tướng, giả hợp, duyên hợp. Khi thấy như vậy rồi ta sẽ bớt đi sự khổ. Vì khổ và vui cũng do duyên hợp mà có cả. Cái vui cũng do căn tiếp với Trần, tiếp với Thức. Rồi phân biệt những sự, pháp nào thọ cảm thấy tốt, thấy đẹp thì chấp giữ vào đó vui vẻ. Đó là một chuỗi duyên hợp những sự kiện chi tiết. Khi căn mắt nhìn thấy cánh hoa, đóa hoa (Trần) khởi phân biệt tốt xấu (Thức) rồi sanh ra khổ, vui Thuận được là vui, nghịch lại là buồn. Và sự vui trên, nó cũng do so sánh với sự buồn mà có cả. Nếu không có những giọt nước mắt, những cơn đau nhói tim khóc la thì nó sẽ không sanh ra những nụ cười, những cảm xúc khoái lạc. Nhưng khi chúng ta đã tạo thành những cảnh vui, cảm xúc khoái lạc thì ngay lúc đó nó là nhân cho sự khổ. Bởi vì, nếu không có những nụ cười, những cảm xúc khoái lạc thì không bao giờ có những giọt nước mắt cùng cảm xúc đau khổ la hét. Khi cái vui đến, nó đã mang sẵn những giọt nước mắt buồn ở bên trong Pháp vui đó rồi. Như vậy, rồi nó trùng trùng duyên khởi, duyên hợp, cảnh sanh tử luân hồi tiếp nối không bao giờ dứt. Nhưng ở đây, cũng những cảnh bi ai, vui lạc đó, Bồ tát đã quán soi nhìn thấy nó chỉ là những cảnh, những cảm xúc, các pháp khổ vui chỉ do duyên hợp lại thôi. Lúc đó, cũng không thấy ai thọ khổ, vui cả.
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc” – “Sắc tức thị không” là tại vì các duyên không thật thể, không thật tướng. Ví như cái đồng hồ, khi chúng ta tháo nó ra từng bộ phận một thì cái đồng hồ không còn là đồng hồ nữa. Nhưng cũng trong cái không kia ráp lại (Cho các duyên tu hợp lại) thì thành cái đồng hồ tức “Không tức thị sắc”, không tức là sắc là vậy đó. Chiếu kiến (thấy) như thế đó là thấy thật tướng biết các pháp duyên hợp lại tạm bợ, hư dối. Đó là thấy với nghĩa Trung đạo, vô chấp. Trung đạo là thật.
Hôm nay, chúng ta tu theo Phật Đạo tức là từ Trí huệ của Phật thắp sáng trí huệ của mình. Khi trong ta có trí huệ Phật rồi thì muôn khổ trên kia sẽ không còn khổ nữa, thấy đúng lẻ thật. Như vậy, thì ta không tham luyến. Thí dụ, khi thấy một chiếc bình hoa là do duyên hợp giả có, hay bất kỳ vật gì dù cho đẹp đẽ thế nào đi nữa cũng chỉ là do sự duyên hợp mà thôi. Khi biết như vậy rồi, dù có ai cắp lấy nó hay bẻ đổ nó, mất hoại ta cũng không buồn. Vì cái buồn cũng do duyên hợp, giả có luôn. Khi biết như vậy, ta sẽ không khổ. Duyên thì hợp, hết duyên thì tan. Còn nếu chúng ta không biết như vậy thì khi bị đánh cắp, mất, tan, hoại ta sẽ rất khổ, đau buồn. Từ đó sân hận sẽ thể hiện lên, rồi trợ duyên sanh ra các tội lỗi, chúng ta phải chuyên tu thật tướng như trên, quán soi như trên.
Kinh Kim cang nói “Phàm hữu tướng giai như thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến như lai” nghĩa là “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như lai”.
Tại sao vậy? Vì các tướng duyên hợp giả có không thật. Chúng ta không chấp vào đó, nhìn thấy chơn thật như vậy tất thấy như lai – tánh giác.
Trong bước đường tu tập của người hành giả Mật tông, chúng ta phải thật sự thấy hiểu như thế, thể nghiệm qua phương pháp tu trì, Thiền quán mật chú Chuẩn đề. Người hành giả Mật chú Chuẩn đề, họ đem “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” trong đi, đứng, nằm, ngồi thiền quán, nghe thấy âm thanh tướng niệm Thần chú trong vạn sự, vạn vật.
Khi mắt (căn) họ chạm đến “sắc trần” thì chính ngay chỗ căn mắt đó nó đã được chứa nhóm Thần chú Chuẩn đề trong những cái thấy của mắt. Cho nên khi khởi nhìn thì cái tánh thấy đó nó đã biết “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Nó đã thể hiện theo tánh thấy đó. Vì khi đó, các âm thanh sắc tướng người hành giả đã từng nghe thấy âm thanh tướng niệm, tướng Thần chú Chuẩn đề trong sắc tướng đó. Rồi thì khi Tướng thấy có Thần chú Chuẩn đề, sắc tướng đó có Thần chú Chuẩn đề. Đâu đâu cũng là tánh thấy, biết Thần chú Chuẩn đề trong đó. Người hành giả huân tập, quán soi, thiền quán như thế thì đâu còn khổ nữa. Sắc cũng là Thần chú Chuẩn đề, mắt cũng là Thần chú Chuẩn đề. Tướng thấy nghe Thần chú Chuẩn đề đó, nó đều thể hiện trong sâu thẳm của nội tâm. Thì ở đó, ta cũng không biết ai đang niệm đó, không ta, không người. Thì “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Luôn cả cảm thọ, tưởng, hành, thức đều không như trên. Nó không có người, không ta nhưng có Thần chú ở đó (Biết hiểu “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”) Thì ta nói là “không tức thị sắc”, thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Vì trong căn tàng thức đã chứa nhóm những chủng loại, chủng nghiệp đều có tính biết thấy Thần chú Chuẩn đề trong đó. Thì khi Lục căn, lục trần, lục thức duyên hợp với nhau nó đều có tánh biết, thấy “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”.
Người hành giả huân tập như thế đó, khi một động tác nhìn cũng phát khởi Thần chú. Một động dụng cũng phát khởi Thần chú, một cảm giác, cảm xúc cũng phát khởi Thần chú, sự tưởng tượng quay lại của quá khứ. Thì trong hình ảnh sắc tướng đó, nó hiện hữu lên. Nó cũng phát khởi “Úm Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”.
Khi họ tưởng đến những điều tương lai thì mỗi niệm tưởng cùng cảnh trí trong tâm (sắc tâm) cũng đều thể hiện Thần chú Chuẩn đề. Hiện tại, khi họ thấy vậy, thấy cảnh, mỗi mỗi sự kiện chi tiết giác niệm đều thể hiện lên Thần chú. Như vậy, các duyên, các niệm đều mang “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đ, ta bà ha. Bộ lâm” thì nó sinh diệt trùng trùng duyên khởi “hiện hành”, tiếp nối (hành) đều thể hiện ra Thần chú Chuẩn đề. Và đến những sự biết, hiểu nó cũng thể hiện nên Thần chú Chuẩn đề. Đây là một chuỗi hòa nhập, thể nhập Thần chú Chuẩn đề trong sắc, Thọ, tưởng, hành, thức. Khi những giác niệm có “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”, những tướng của nó thuộc về không tướng. Vì ngay đó không có người, không có ta thì nó bằng không “Không tức thị sắc”. Mặc dù, không nhưng thể hiện Thần chú Chuẩn đề “Không tức là sắc”.
Khi người hành giả huân tập, tu trì như thế, tâm sẽ không còn phân biệt. Mọi thứ đều là Thần chú, vạn pháp đều là Thần chú. Và ngay đó, Thần chú vạn pháp là một. Cái một đó không ai biết nó ở đâu và đi về đâu. Lúc đó, giác tánh cái biết không tướng “Trí huệ bát nhã ba la mật”.
Cư Sĩ Thanh Hùng,
Pháp Hiệu Chánh Trí
COMMENTS
Thiền sư Duy Tín đời Tống đã từng nói: “Trước khi gặp thiện hữu tri thức, ta thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, ta thấy núi sông không phải là núi sông. Ngày nay, sau ba mươi năm, ta lại thấy núi sông là núi sông.”
Trước đây khi chưa tu chưa thấy đạo chưa gặp thiện tri thức theo mắt phàm trần ta thấy núi sông thật là núi sông , sau khi gặp đạo, được sự chỉ dạy bậc tri thức ta dùng trí bát nhã chiếu kiến thấy thật rõ sự giả danh tạm bợ, duyên hợp của thực thể thì biết rõ núi sông không phải là núi sông. Từ thấy không thật, tâm không có sự dính mắc, chấp ta chấp người chấp ngã, chấp pháp, phải trái, có không được mất, yên lặng như như hiện tiền, Nên núi sông thật là núi sông .
Bát nhã tâm kinh quả thật rất cần thiết cho người tu đạo để trở về tánh giác. Để trở về thật tánh như lai, chúng ta phải đưa qua cửa không , để đi qua được cửa không. Như ĐẠO NHÂN VÔ TÂM đã viết, trước tiên ta nên bám vào một pháp, đó chính là thần chú Chuẩn Đề. Ta quán chiếu căn , trần, thức, tưởng, thọ, hành, thức… đều là âm thanh “Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta ba ha , Bộ Lâm”. Cuối cùng dùng trí tuệ bát nhã để thấy rõ các pháp trên thế gian này tạm bợ giả dối, như mộng như huyễn như trăng đáy sông , thấy đó nhưng chạm tới là mất.
Cảm ơn Thầy đã lược giải Bát Nhã Tâm Kinh bằng ngôn ngữ mật chú Chuẩn Đề. Sự lược giải hoàn toàn mới mẻ đệ tử mong mỗi người hành giả chiêm nghiệm suy tư những lời chú giải đó đều thọ nhận được sự chân thật chiếu kiến tự quán soi mình, lấy trí tuệ bát nhã để một đao đứt đoạn ruồng phá vô minh, những ngăn ngại trên đường tu. Thì sự tu tập của người hành giả đó duyên thuận, sự thành không có xa. Đúng như kinh đã nói: ”Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách” . Thấy 5 uẩn đều không thì chúng ta hết khổ liền, hết trầm luân sanh tử ngay.
Như Thầy đã nói: “Khi mắt (căn) họ chạm đến “sắc trần” thì chính ngay chỗ căn mắt đó nó đã được chứa nhóm Thần chú Chuẩn đề trong những cái thấy của mắt. Cho nên khi khởi nhìn thì cái tánh thấy đó nó đã biết “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Nó đã thể hiện theo tánh thấy đó. Vì khi đó, các âm thanh sắc tướng người hành giả đã từng nghe thấy âm thanh tướng niệm, tướng Thần chú Chuẩn đề trong sắc tướng đó. Rồi thì khi Tướng thấy có Thần chú Chuẩn đề, sắc tướng đó có Thần chú Chuẩn đề. Đâu đâu cũng là tánh thấy, biết Thần chú Chuẩn đề trong đó. Người hành giả huân tập, quán soi, thiền quán như thế thì đâu còn khổ nữa. Sắc cũng là Thần chú Chuẩn đề, mắt cũng là Thần chú Chuẩn đề. Tướng thấy nghe Thần chú Chuẩn đề đó, nó đều thể hiện trong sâu thẳm của nội tâm. Thì ở đó, ta cũng không biết ai đang niệm đó, không ta, không người. Thì “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Luôn cả cảm thọ, tưởng, hành, thức đều không như trên. Nó không có người, không ta nhưng có Thần chú ở đó (Biết hiểu “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”) Thì ta nói là “không tức thị sắc”, thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy”.
Qua đoạn giảng giải của Thầy ở trên mà mới đây đệ tử đã được cảm nhận một phần nhỏ của những lời Thầy nói quả không sai khác! Đó là vào buổi chiều sau khi được Thầy cho tham dự đàn lễ tri ân cảm tạ lòng từ bi, trí huệ bát nhã của Chư Phật, Chư Bồ tát, Đức Phật mẫu Chuẩn đề, Đức Uế tích kim cang bồ tát, Đức Quan thế âm bồ tát đã phổ độ cho các chúng đệ tử. Năng lực của đàn pháp đã và đang lắng đọng đưa tôi đến ngồi nghỉ trên chiếc ghế đá dưới tòa nhà nơi rất đông người, tiếng động xung quanh. Lúc bấy giờ, thần chú Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum như vang dội từ đâu đó trong thâm tâm, cứ nghe cứ nghe tiếng chú đó vang lên cùng với những làn gió man mát thổi qua đã đưa trạng thái tâm thức đến sự thoải mái, nhẹ nhàng an lành. Chợt nhận ra tâm thức như đang bung tỏa, hòa quyện với cảnh vật xung quanh, con người, âm thanh cùng với đó là sự nhận biết rõ ràng trong tỉnh giác và tĩnh lặng của tiếng niệm chú. Quán sát như vậy thấy đúng như trong câu chuyện Thầy vẫn khuyên bảo hãy là người chủ nhà chỉ quan sát kẻ trộm đang ra vào ngôi nhà và biết ngay đó thôi, ko cần phải hành động gì cả. Và cũng chợt thấy sự chuyển động của những người quanh đó cũng đồng với sự rung rinh của cành lá, có gì khác đâu nhỉ! Thật nhẹ nhàng, thoải mái mà không phải gắng gượng như lâu nay! Cũng ngay đó, năng lực của tiếng chú Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum liên tục khởi niệm lan tỏa thì chỉ là cái biết đó thôi, thân xác như không còn vướng bận vào cái biết này nữa.
Qua sự kiện trên mà được đọc lại bài pháp của Thầy mà đệ tử thấy, cảm nhận rõ hơn những lời Thầy chỉ bảo lâu nay. Tuy là sự va chạm rất nhỏ trên con đường tu học nhưng nhờ đàn pháp và sự kiện trên như là một cơ duyên, một sự nhiệm màu của Phật pháp đã giúp đệ tử cảm nhận được niềm an lạc giản dị trong sự bàng bạc của sự sống, ấn tâm cho đệ tử được biết chỉ dấu của con đường đạo để có thêm sự tinh tấn, cố gắng trong sự tu học.
Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…
“Khi những giác niệm có ‘Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.’,những tướng của nó thuộc về không tướng.Vì ngay đó không có người,không có ta thì nó bằng không ‘sắc tức thị không’.Mặc dù,không nhưng thể hiện thần chú Chuẩn đề ‘không tức thị sắc’.”
Mỗi khi trì niệm,đệ tử thường quán soi trở lại ai đang niệm,tìm nơi âm thanh không có ta,tìm nơi sự duyên hợp miệng,thanh quản,gió,trí nhớ…cái ta đều tan vỡ,ảo hoá.Rồi đến cái ta đang tìm ta,cũng vọng tưởng.Chỉ còn Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm…
Đọc đến bài pháp của Thầy,đệ tử thật tâm đắc với tư tưởng,sự giải ngộ của Thầy “mọi thứ đều là thần chú,vạn pháp đều là thần chú.và ngay đó,vạn pháp và thần chú là một”.sự giải hạnh và thật chứng tương ưng,vạch ra 1 con đường hướng thượng cho chúng đệ tử,đúng theo lộ trình Như Thật Đạo.
Đệ tử đảnh lễ Thầy!
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm.
Om Mani Padme Hum.Úm A Hùm.
Bát Nhã Tâm Kinh qua lời Thầy giảng giải đệ tử chưa thực hành được nhiều nhưng lại cảm thấy dễ hiểu và có động lực muốn thực hành thiền quán sát sắc trần, ngũ ấm để thật chứng thông hiểu thoát khỏi sự chấp dính nghiệp tập cùng phương pháp thực hành pháp tu niệm Mật Chú Chuẩn Đề như lời Thầy dạy làm sao mà để thần chú Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm sống trong tâm mình như cuộc sống của mình, niệm xuyên suốt, đang ăn đang nghỉ đang làm đang suy nghĩ, đi lại, trong tất cả mọi biến hiện của tâm thức, hành động luôn trì niệm Mật Chú để năng lực trí huệ của Phật chú đưa người hành giả thực hiện đúng với con đường Chánh Đạo.
Con nhớ có lần Thầy từng dạy con : “ người tu theo Đức Phật khác với người đời, khi mình muốn mình là con của Phật là đệ tử của Phật của Thầy Tổ thì phải trì niệm Mật Chú suốt, vì con đường mình đi là con đường về với tánh giác, chân thật có một hạnh nguyện về với Đức Phật. Còn người đời người ta làm đủ thứ chuyện thì họ đi theo hướng khác. “
Nên đó cũng chính là một bằng chứng hiển hiện trong thực tại của sự sống trong con, nghiệp tập bám theo như bóng theo hình do chính con đã tạo tác lên từ vô thuỷ vô chung đến nay, gieo nhân nào gặp quả nấy. Đến lúc này con mới biết sợ tội ác, sợ vô minh. Nhưng không có gì có thể qua được mắt Thầy, nhờ có Thầy con mới có thêm được sự bình tĩnh, ẩn nhẫn để trả nghiệp để đứng vững vàng vững tâm sáng suốt hơn, quyết liệt hơn để gắng tu trì trong từng giác niệm lấy Mật chú Chuẩn Đề là hơi thở sự sống màu nhiệm giúp con vượt qua những khó khăn gian nan của cuộc đời, lấy Mật Chú Chuẩn Đề làm nội lực, trí lực, bi lực giúp con nắm lấy lý trung đạo để không chạy theo cảm xúc nghiệp lực nhất thời mà đánh mất trí huệ trong lúc này chỉ có năng lực của Mật Chú Chuẩn Đề và tâm lực của Thầy mới cứu được con, thức tỉnh con sau những kiếp vô minh để tiêu trừ đi những si mê, ngã mạn, cố chấp từ vô thuỷ vô chung đến nay. Muốn có một hạnh phúc an lạc trí huệ tỉnh giác trong đời này chỉ có duy nhất một con đường chân thật tu.
Nam Mô Bôn Tôn Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Om Mani Padme Hum