Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmCư sĩ Thanh Hùng

THIỀN QUÁN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ QUA CHỨNG ĐẠO CA – Phẩm 10

PHẨM 10

Chánh Văn:

Tịnh ngũ nhãn đắc ngũ lực
Duy chứng nãi tri nan khả trắc
Kinh lý khán hình kiến bất nan
Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc.

Dịch Nghĩa:

Tịnh năm mắt, được năm lực.
Chỉ chứng khó hay khó lường được
Trong gương xem bóng dễ thấy hình.
Đáy nước mò trăng nhọc công chắc.

 

Đây là một bài thơ ngài Huyền giác nói lên ngũ nhãn do sự tu tập của hành giả từ nhục nhãn thô đến sự mở năm mắt trong sạch thanh tịnh. Cũng đôi mắt thịt nhưng khi con người tu học thanh tịnh thì có cái thấy biết sâu nhiệm, soi thấy vạn pháp ngay thật tướng của nó. Như vậy, khi người tu đạt đạo họ sẽ mở sáng năm mắt, thấy suốt cội nguồn mà những người thường không thấy được. Trong bài viết này, xin tạm mượn lời kinh trong “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận ” của Thiền Sư Tuệ Hải để diễn thuyết về năm mắt:

1.Thấy sắc thanh tịnh gọi là nhục nhãn. Con người bình thường của chúng ta thấy sắc là nhiễm sắc, bị nhiễm ô. Còn thấy sắc thanh tịnh, ngay mắt thịt, thấy sắc mà không nhiễm sắc, không mê lầm thì đó là được con mắt thịt thanh tịnh.

2. Thấy thể thanh tịnh gọi là Thiên nhãn: Tức là con mắt của cõi trời thấy suốt qua mọi hình tướng mà lìa tướng gọi là thấy thể thanh tịnh. Như vậy là được Thiên nhãn tinh tức là mắt trời thanh tịnh. Con mắt của chư thiên các cõi trời thường thấy suốt những vật ngăn ngại, nhưng cũng chưa được gọi là thanh tịnh vì đây cũng còn mê.

3. Đối các cảnh sắc thiện ác đều hay phân biệt vi tế, không nhiễm trước cảnh ấy được tự tại gọi là Tuệ nhãn. Tuệ nhãn là con mắt tuệ, tức là thấy thấu qua tướng phân biệt không ngăn ngại, có chỗ nói thấy được lý không các pháp gọi là Tuệ nhãn.

4. Thấy mà không có chỗ thấy gọi là pháp nhãn: Thấy suốt qua các pháp sai biệt. Có chỗ gọi là thấy sự sai biệt của các pháp tùy cơ giáo hóa chúng sanh tùy bệnh cho thuốc gọi là pháp nhãn.

5. Không thấy mà không không thấy thì gọi là Phật nhãn: Phật nhãn là thấy suốt tất cả mà không có dấu vết gì để thấy cho nên gọi là không thấy mà không chẳng thấy. Tức là thấy suốt tất cả.

Trong ngũ nhãn này, chúng ta sẽ thấy sự tu hành theo từng cấp độ khác nhau. Từ ngay chỗ Nhục nhãn bình thường chỉ thấy sắc là nhiễm sắc. Thấy cành hoa, ngay chỗ đó nảy ra ý phân biệt hoa đỏ, hoa trắng xanh đủ màu. Rồi từ ngay chỗ phân biệt đó sanh ra cảm xúc thọ cảm. Thích thì vui, không thích thì buồn thất tình sẽ tràn ngập che đậy cái thấy suốt soi. Còn con người có tu học sẽ nhìn thấy ở cấp độ cao hơn một chút. Họ nhìn thấy trong cánh hoa đó do đất, nước, gió, lửa, do công của con người , do ý thức hệ từ quá khứ, hiện tại, vị lai kết hợp thành. Rồi từ đó giả danh cho đó là hoa đỏ, hoặc hoa hồng, tốt xấu, do chủng nghiệp đó tự đạo diễn chứ thật ra không có cái chủ thể nhất định. Người thấy như vậy thì gọi là có nhục nhãn thanh tịnh.

Từ chỗ thấy các tướng duyên hợp không thật thể như vậy mà tâm thanh tịnh, không nhiễm sắc tướng. Mọi ý niệm khi thấy đều không dính mắc. Thấy như vậy gọi là thấy thể thanh tịnh gọi là Thiên nhãn.

Khi chúng ta thấy các sắc thiện ác, tốt, xấu đều do duyên hợp cả. Bản thể của nó đều thanh tịnh. Khi đối trước tất cả các duyên đều biết rõ nhưng không phân biệt nhiễm ô. Không dính vào tất cả các pháp đều biết, đều soi sáng nó. Đối trước những cảnh, pháp tướng đều tự do lui tới thanh thoát. Khi thấy một cành hoa, ta vẫn thấy nó rõ ràng từ tướng đến sự chuyển biến sinh diệt nó. Thấy đó là hoa hồng, tướng do duyên hợp, do tập khí, ý thức hệ tạo cho nó cái danh hoa hồng. Rồi nó tốt đẹp, rồi một ngày nào đó nó hoại. Trong chuỗi sinh diệt đó, ta thấy rất rõ ràng là nó không có mất mà nó được chuyển biến từ thể này sang thể khác. Từ cành hồng đẹp đến tàn rụi. Những khí chất đó được bốc lên thành mây, rồi mây thành mưa tưới tẩm xuống hạt giống hoa hồng và vạn vật sinh nở tiếp. Nghĩa là Tuệ nhãn ta nhìn thấy những chuỗi sinh diệt giả có vi tế bên trong vạn pháp.

Thấy mà không có chỗ thấy gọi là pháp nhãn. Khi thấy được những chuỗi sinh diệt của vạn pháp thiện ác rồi soi thấy đến sự duyên hợp giả có của nó rồi. Thì khi đó, người hành giả cùng cái thấy đó cũng không có nữa. Vì nó cũng không thật thể, không tướng thấy, không ngã, không pháp. Mọi vật đều có tánh thấy hằng có. Thì đó, không có năng kiến cùng sở kiến, cái nhìn thấy và vật bị thấy mọi cái đều là cái tánh thấy cả. Thì đó gọi là pháp nhãn, cái thấy biết cùng vạn pháp là một. Không thấy mà không không thấy thì gọi là Phật nhãn. Ở đây, cái thấy biết cùng vạn pháp là một. Và ở đây, tánh thấy thanh tịnh đã hằng có từ vô thủy, vô chung đã thể hiện rồi thì mọi vấn đề vọng niệm để thấy hay bất cứ một niệm tưởng nào, một pháp nào đều chẳng phải cả, vì “Bản lai vô nhất vật”. Ở đây, chỉ không thấy, không không thấy bặt tất cả sự thấy biết.

Người hành giả từ sự tu hành nhìn soi thấy như vậy rồi. Họ biết rõ căn cội của vạn pháp từ đó trong tâm sinh ra những lực bền chắc tiến tu, làm cho người hành giả không thoái chuyển.

“Tịnh năm mắt được năm lực”

Năm lực ở đây tức là năm sức mạnh tín tâm phát khởi hình thành năm lực thúc đẩy hành giả tiến tu:
– Lực thứ nhất là “tín lực”. Khi họ đã nhìn thấy căn gốc vạn pháp là huyễn hợp, không thật thể, thấy được bản tâm thanh tịnh thì ngay đó phát khởi được “tín tâm” mãnh liệt để tiến tu.

– Lực thứ hai là “Tấn lực”; là sức mạnh luôn luôn thể nhập, huân tập tu hành. Vì khi đã thấy vạn pháp như vậy rồi.
– Lực thứ ba ở đây gọi là “niệm lực”. Niệm ở đây không phải như tâm mình thường niệm. Mà ở đây là tâm chuyên nhất luôn thường biết, không có một tạp niệm nào xen vào đó liên tục như vậy gọi là “Niệm lực”.
– Thứ tư là “Định lực”. Một sức mạnh an định, vững vàng. Khi họ đã quán soi vạn pháp thật rõ ràng không chủ thể nhất định do duyên hợp mà có. Từ đó, họ không dính mắc vào pháp nào cả. Cho nên, chuyên nhất, nhất niệm tạo thành niệm lực xuyên suốt, không thời gian, không không gian, không pháp ngay chỗ đó họ có một lực định vững vàng. Từ định lực vững vàng. Họ luôn luôn tỉnh thức, quán soi vạn pháp, quán soi cội gốc của vạn pháp. Biết rõ tất cả chỉ là một giấc mộng giả hợp.
– Và cuối cùng, ngay đó, họ quán soi được các pháp đều bình đẳng. Từ đó, tâm họ sáng suốt không bị mê lầm gọi là “Huệ lực”. Đó gọi là Năm lực.

Chỉ chứng mới hay khó lường được”.

Ngay đây, ngài khuyên ta nên tu học. Rồi chứng đắc tự biết ngay chỗ đó chứ thật tế ở danh tự ngôn ngữ chỉ năm mắt, năm lực không nói lên được sự huyền diệu của nó. Hãy vào đó đi bằng cái tâm bình đẳng.

“Trong gương xem bóng dễ thấy hình.
Đáy nước mò trăng nhọc công chắc”.

Đây nói trong gương xem bóng mình. Nó sẽ in hình lên dễ thấy hình. Nghĩa là hằng ngày hãy tự xem gương soi thấy mình đi để tự thấy mình mà sửa lấy mình. Hằng ngày, tu tập quán xét các pháp, quán thân bất tịnh. Ngay nơi tâm mình mà thấy mà nhìn nó diễn biến để thấy các pháp thật tướng nó như thế nào. Từ chỗ tự quán xét mình ngay tức khắc đó, trên tinh thần tỉnh giác thì chúng ta ít bị vọng tưởng lôi cuốn. Và ngay đó, chúng ta sẽ nhìn thấy nó các tướng vọng tưởng, tham, sân, si. Ngay đây, chúng ta như một người chủ nhà nhìn xem hàng ngày, hàng giờ khách đến, khách đi, khách mang gì đến, mang đi những gì, khách đang làm gì. Khi những người khách đó có tâm xấu, người chủ như mình hòa nhã bảo rằng: “không cần chúng ta phải làm như vậy, đừng lấy, đừng bỏ những gì cả”. Vì quí khách đã có sẵn mọi thứ thì khi đó người khách điềm đạm tự do ra đi, người chủ lúc ấy chỉ mỉm cười. Ngay đây, người tu Mật chú Chuẩn đề, họ tĩnh tâm cho vang lên âm “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Khi mọi người khách đó đến, họ ai cũng nghe được âm thanh “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Những người khách đó, họ nghe từ từ tâm của họ được huân tập âm thanh hương thơm Chuẩn đề đó. Khi họ đến, những đồ đạc, vật dụng mang theo hay hoặc khi họ đi những đồ vật dụng tuy khác muôn màu nhưng mỗi hiện vật khách đó đều được ướp hương “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Và những người khác đó đến lui ở ngôi nhà đó đến một lúc họ tự nói tôi và chủ nhà thì ra giống nhau chỉ có một hương thơm đó thôi. Thì ngay chỗ đó, khách và chủ ôm nhau. Và sự tới lui đi đứng chủ và khách không khác nhau. Rồi đến một lúc nếu đã là chủ khách như nhau thì làm ngôi nhà làm chi, hãy giở tung nó ra đi. Khi đó, bầu trời Chuẩn đề không gian bao la Chuẩn đề đều vang lên “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”.

Đấy là sự quay trở lại của chúng ta “Trong gương xem bóng thấy hình. Hãy tự soi sáng lấy mình”. Nếu không, chúng ta cứ mãi chạy theo vật vọng tưởng: “Đáy nước mò trăng nhọc công chắc”. Cứ mãi chạy theo bên ngoài. Cũng như lặn sâu xuống đáy nước để mò trăng, bắt trăng thì nhọc công thôi. Trăng ấy ở trên trời cao ta phải hướng nhìn về nơi ấy chứ không thể bắt trăng dưới đáy nước chỉ là những ảnh tử mê mờ, vọng tưởng, tưởng chừng như thật. Trăng ấy tròn sáng tức tự tánh thanh tịnh của mình nó không thể dùng một tác động, một pháp nào vọng niệm mà tìm bắt nó được. Vì tự tánh thanh tịnh nó đã có trước sự bắt được tham cầu. Nó đã có sẵn. Ngay đó, hãy trở về với tự tâm của mình thì ánh trăng mới sáng tỏ.

Tâm tự xưa nay tâm
Bổn tâm chẳng có pháp.
Có pháp có bổn tâm
Chẳng tâm chẳng bổn tâm – Tổ thứ 4 Ưu Ba Cúc Đa

Cư sĩ Thanh Hùng
Pháp hiệu Chánh Trí

Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

COMMENTS

WORDPRESS: 3
  • comment-avatar

    Chúng ta thường mò trăng đáy nước không? Hầu như tất cả chúng ta đều vọng chấp mà soi bóng quên hình, nhọc công mò trăng đáy nước. Sự thật thấy cái lý, hiểu cái lý nó là như thế. Nhưng thật sự để rõ biết tỏ thông từng ý niệm vi tế, tức là sự sống trực tâm ngay đó khó ai mà thể hiện sống được. Chỉ ai đi cùng nó sống cùng với nó mới thấy được, vì không có văn tự ngữ ngôn nào có thể tột cùng thể hiện diễn bày được ra được.
    Thầy bảo người hành giả cứ bình tĩnh dụng năng lực của Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni Pad Me Hum. một sự nhẫn ba la mật, rồi đến một lúc nào đó như Tổ Ưu Ba Cúc Đa nói :
    Tâm tự xưa nay tâm
    Bổn tâm chẳng có pháp.
    Có pháp có bổn tâm
    Chẳng tâm chẳng bổn tâm .

    Người hành giả tự thể nhập ngay nơi đó, mà tự tại với cuộc đời.

  • comment-avatar

    Không ngã, không không ngã. Không pháp, không không pháp. Ngã cũng không mà pháp cũng không, không có sinh tử, không có Niết bàn. Không dính bên này, không kẹt bên kia. Tự tới lui trong tất cả, tự tại tỉnh giác. Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm???

  • comment-avatar

    Năng lễ sở lễ tánh không tịch.
    Vì là không có ngã, chẳng sở cũng chẳng hữu, và như vậy cũng là không, cái tự tánh hằng có vốn đã thanh tịnh, chỉ vì ta mê mà chấp vào mà phân biệt. Nay con xin chỉ nương tựa nơi thần chú Chuẩn Đề để một lúc nào đó, tự thể nhập nơi như như.

    Nam mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề.

    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm