Chánh Văn
Thượng Sĩ nhất quyết nhất thiết liễu
Trung hạ đa văn bất tín
Đản tự hoài trung giải cấu y
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn
Dịch Nghĩa
Bậc thượng một quyết xong hết thảy
Trung hạ nghe nhiều ngờ vực mãi
Áo bẩn trong lòng hãy vứt đi
Khoe chi tinh tấn bên ngoài ấy
Ở đoạn kinh luận này đức Huyền Giác nói ngay nơi tâm của một người hành giả tự quán soi chứng đắc tâm mình, thấy những điều chân thật trong đấy. Khi mọi điều giả hợp đã phơi bày “ Tri huyễn tức ly huyễn” bậc thượng nhân là lấy trí huệ chân thật đó để soi thấy các pháp, nhìn thấy sự chân thật của nó qua hình thấy từng chi tiết một của các pháp huyễn hợp giả có không có thật tướng của nó. Ngay nơi đó trực chứng, trực ngộ bằng cái biết chân thật của nó. Cái biết chân thật đó trải rộng trên toàn bề mặt của vạn pháp, vạn hữu, trong ngoài, trên dưới, mọi sự mọi vật đều bình đẳng. Khi cái tâm đó đã thể hiện trong người hành giả, thì tùy duyên mọi vật, mọi pháp đến đi nó trực nhận nhanh chóng, biết chân thật không phân biệt đắn đo suy nghĩ, vì đắn đo suy nghĩ nó thuộc ở tình thức phân biệt.
Bậc thượng một quyết xong hết thảy
Trung hạ nghe nhiều ngờ vực mãi
Đó 2 câu trên dẫn chứng cho chúng ta thấy ngay ở mỗi cấp độ tư tưởng tu học khác nhau, ở đây tạm mượn Thượng, Trung, Hạ để phân biệt chứ thật ra đạo không còn cái chỗ cao thấp, thượng hạ sai biệt. Mượn văn tự ngữ ngôn đó để thể hiện sự chứng ngộ sai biệt trong nội thức, tâm thức thể hiện ra. Người trở về với bản tâm thanh tịnh, người luôn luôn nhạy bén trong từng sát na, sanh diệt. Vì họ nhạy bén ở hai bên sanh và diệt, cho nên họ không có sự sanh diệt bao giờ, nên mọi vọng niệm đều nhanh nhạy bén. Vì ngay đó cái biết đó đã hằng có bao giờ rồi, chứ không phải do sự tu chứng mà có. Sự nhạy bén ở đây, nó không có thời gian và không gian, sự nhanh bằng sát na rất nhỏ, và sự sát na thời gian tạm mượn đó gọi là liễu ngộ. Một sự hằng biết có từ bao đời, do vô minh che lấp bao đời, nay liễu ngộ vô công dụng đạo, không bằng một tác động, động thái nào mà hình thành nên sự liễu chứng đó cả.
Có những vọng tưởng nào mà đến ta không biết chăng? Tuy là vọng tưởng nhưng bao giờ cũng biết cả, nếu ta tỉnh giác ta sẽ biết ngay nơi đó có cái biết vọng động sanh diệt. Người hành giả ngay nơi đây chỉ biết vậy thôi, không vọng động sanh diệt, mà người hành giả chúng ta hằng biết lặng lẽ thanh tịnh, không động không phân biệt, cái biết hằng lặng lẽ thanh tịnh không động sanh diệt đó là cái nhân của Phật. Ngay nơi đây sự tu học của ta càng ngày cái biết đó càng sáng suốt viên mãn, thì quả Phật sẽ thể hiện ngay tâm thức đó, ta hãy khách quan mà quán soi nơi mình coi cái biết hằng có nhân Phật đó ở nơi đâu? Như khi chúng ta ngồi chơi con kiến, con muỗi, con ong nó đốt cắn ta, nó chích ta. Ngay giờ phút đó ta vẫn biết chứ, biết rõ ràng. Như vậy ở bất cứ nơi đâu trong da thịt, thân thể ta cũng đều có cái hằng biết rõ ràng, nó có sẵn bao đời rồi. Nên khi cái gì chạm đụng tới nó đều biết cả, nếu ngay nơi đây chúng ta ngồi yên, đứng yên không cử động, không tác động gì cả thì ngay nơi đó, mắt chúng ta có thấy không? Thấy rõ ràng. Tai có nghe không? Cảm xúc có biết không? Mọi điều thể hiện rất rõ ràng. Như vậy nơi đó sát na đó mắt thấy tai nghe thân cảm xúc tất cả những cái đó nói lên một điều là sự hằng biết đã có sẵn, cái hằng biết đó nó không động. Còn nếu ngay đó ta phân biệt suy nghĩ lăng tăng làm mọi điều tất cả ta động. Người hành giả tu học phải lặng cái biết động để thể hiện cái biết hằng có thanh tịnh.
Cái biết của thấy, nghe, cảm xúc bản chất của chúng không có động, không xấu – Xấu động hay không là do ta phân biệt chia chẽ, cảm thọ tốt xấu mà sanh ra nhiều điều, nhiều chuyện thị phi. Nếu thấy biết cảm xúc mà phân biệt nó sẽ huân tập vào căn tàng thức để giữ lấy, có duyên nó sẽ đem ra để so sánh phân biệt. Nếu chúng ta cứ sống mãi như vậy là chúng ta sống trên sự nghiệp huân tập giả hợp phân biệt mà có, gọi là “sở tri chướng”. Thế gian này chúng ta khó thoát khỏi cái đó.
Ngay nơi pháp môn tu Mật chú Chuẩn Đề, mọi cá nhân hành giả phải biết thật rõ ràng cái hiện tướng của sự biết huân tập vọng động trên. Để khi chúng ta sống tu tập được an lạc thoải mái. Người tu Mật chú Chuẩn Đề trong sự sống hàng ngày, lấy sự sống sinh hoạt trong đi, đứng, nằm, ngồi luôn tạo cái biết nổi lên trong nội thức trong từng sự vật vạn pháp, phải thấy biết, nghe biết – Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Trong pháp tu quán nghe soi thấy biết thần chú như vậy, thì ngay nơi từng sát na quán soi nghe thất đó bao giờ người hành giả Mật chú Chuẩn Đề cũng thể hiện lên cái biết hằng có không động ngay nơi đấy. Người hành giả Mật chú Chuẩn Đề phải tỉnh giác mà lặng lẽ thanh tịnh, nghe biết thần chú đó để từ từ sẽ hóa giải cái nghe biết hằng ngày sanh diệt vọng động của ta trong cuộc sống. Biết như vậy ta sẽ nhẹ nhàng thoải mái khi lăn lộn trong cuộc sống.
Áo bẩn trong lòng hãy vứt đi
Khoe chi tinh tấn bên ngoài ấy
Ngay văn tự đó ngài Huyền Giác đã chỉ cho ta thật rõ ngay nơi sự tỉnh giác tu học đó, hàng ngày hàng giờ ta đã biết được sự biết hằng có không động, thì cũng ngay nơi đó những cái biết vọng động nó cũng tự hóa giải. Mà nó đã tự hóa giải thì thân tâm người hành giả nhẹ nhàng, an lạc hạnh phúc, nó sẽ thể hiện ngay cái hạnh tu học của người đệ tử Phật, đâu cần phải dùng điều này điều nọ thị phi khoe cái gì hết, cứ nhẹ nhàng an lạc đó là sự chân thật bất hư
Chẳng cần cửa tía, chẳng cần rừng
Rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm
Thế nhân trọn thấy ngàn non sáng
Mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Cư sĩ Thanh Hùng
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
COMMENTS
Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…
Thầy nói: mọi cảm xúc ý niệm vọng động nó không có xấu, xấu là do ta chấp giữ thọ cảm cùng nó để cho nó là tốt xấu. Người hành giả phải sắc bén trong sự thấy biết rõ ràng hai bên, thì ngay nơi đó nó tự hoá giải nghiệp thức. Thì người hành giả sống chỗ nào, nơi nào dù động hay tịnh dù nhơ hay sạch chỗ nào cũng là đạo tràng, lúc nào cũng trong đại định thì nơi đâu cũng an tâm.
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm