Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmCư sĩ Thanh Hùng

THIỀN QUÁN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ QUA CHỨNG ĐẠO CA – PHẨM 16

Chánh Văn

 

Quán Ác Ngôn Thị Công Đức

Thử Tắc Thành Ngô Thiện Tri Thức.

Bất Nhân San Báng Khởi Oan Thân

Hà Biểu Vô Sinh Từ Nhẫn Lực.

 

Dịch Nghĩa

 

Xem Lời Ác, Chính Công Đức,

Đây Thực Vì Ta Thiện Tri Thức.

Chẳng Do Phỉ Báng Dấy Oán Thân,

Sao Tỏ Vô Sinh Từ Nhẫn Nhục.

 

 

Trong phẩm này đức Huyền Giác đã thể hiện lên tinh thần vô ngã không tướng. Ngài đúng thật là một vị Thiền sư đắc đạo giải thoát không bị ràng buộc trong vọng niệm, vọng tình. Người đã rất mạnh dạn nhanh lẹ tỉnh giác thấy những nghịch cảnh chướng duyên đều là trợ duyên lành, là thiện tri thức, là Bồ tát giúp Ngài trên đường tu học.

 

Xem Lời Ác, Chính Công Đức,

Đây Thật Vì Ta Thiện Tri Thức.

 

Ngài luôn lấy nghịch cảnh, luôn lấy những lời phỉ báng trái tai gai mắt, mà làm thiện tri thức thức giúp mình tu. Có những lời phỉ báng nặng nhẹ nó mới chân thật giúp ta nhẫn nhục. Ngay nơi đó những hành động diễn ra cùng nội dung chi tiết ồ ạt đến với mình, mà mình tỉnh giác xem nhìn biết nó luôn là pháp vô thường, không thật thể do sự huyễn hợp mà thành, do nội dung chi tiết ý thức hệ nhiều đời nhiều kiếp tạo nên, rồi giả hợp phân định vấn đề này vấn đề khác thiện, ác, ta, người.  Thành ra một loạt vọng tưởng, vọng niệm. Trong vấn đề thị phi nếu chúng ta tỉnh giác nhìn thấy chúng ở nhiều giai đoạn, nhiều chi tiết, nhiều thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai mà xôn xao tạo thành chứ thực chất chúng không có tướng nhất định của nó.

 

Như ở niệm giận hờn si mê chúng ta thấy ngay nơi đó do sự chất chứa nhiều đời phân định, là lời nói đó nói ra xấu, lời nói đó nói ra tốt. Trong vấn đề lời nói đó, nó cũng duyên hợp ở nhiều chi tiết khía cạnh cuộc sống riêng mà hình thành. Khi nghe lời trái tai liền giận, vì tướng giận sự nóng này chất chứa trong lòng đã nhiều đời thành tập nghiệp. Khi nghe lời nói trái tai, hình ảnh không thích ảnh hưởng đến sự hiểu biết của mình, thì ngay nơi đó “ tướng giận” phát lên. Khi tướng giận nóng nảy, khí huyết sôi sục, tim đập nhanh mạnh lượng máu bơm ra hút vào nhiều nhanh,  tạo nên nhiều làn sóng não, khiến cho rất nhiều cảm giác, cảm xúc tạo thành sự bấn loạn của hệ thần kinh cảm giác, thần kinh giao cảm khiến cho tay chân quơ qua quơ lại chuyển động. Sự chuyển động này gọi là “ lực” sức rung động chuyện động cho tập nghiệp chủ động gọi chung là “nghiệp lực”. Cái lực này nó tác động lên thân, khẩu, ý gây tạo nghiệp – Tác động lên khẩu khiến người ta chửi rủa mắng nhiếc lời nói độc, lời nói hiền, lời hung dữ. Rồi lên thân khiến cho tay chân chúng ta động thủ phải theo mệnh lệnh của nghiệp lực kia đánh đập, xoa dịu, tàn ác hay hiền từ tùy theo tập nghiệp huân tập của chúng ta và nó sẽ tác động lên ý. Nếu ý thức hỗn loạn, ngay nơi đó tỉnh giác “nghiệp lực” sẽ đẩy những chủng tử ý niệm lành để người tạo tác thiện.

 

Qua cái nhìn sự giả tướng duyên hợp, giả tạo hình thành nghiệp lực trên. Nếu người hành giả tĩnh tâm tu hành trở về với cái biết hằng có thanh tịnh, thì nghiệp chướng kia; tướng giận, tham, sân, si kia nó cũng tĩnh vì bản chất chúng không có động. Động là do chúng ta vọng tưởng phân biệt phân chia ta, người, tốt, xấu thành ra tạo nghiệp. Còn người ngay nơi đó tỉnh giác biết giận là duyên hợp, chỉ biết giận ngay đó tỉnh giác ngay đó, thì cái biết hằng có đó đâu có ảnh hưởng gì với sự giận hờn, tham si. Cho nên ngay đó người hành giả thoải mái an lạc không bị vọng động cuốn lôi vào tạo nghiệp. Những hình ảnh, vọng niệm, vọng thức của nghịch cảnh đến họ lấy ngay nơi nội dung chi tiết đó mà tu học. Còn người tu hành trong sự khổ đau ràng buộc đó mà tu thuần thục, thì mới thật sự là một con người thoải mái an lạc. Muốn tự tại, an lạc thì phải biết sống thật sự trong sự ràng buộc đau khổ, nhận thấy tính chất nội dung của nó thì ngay nơi đó sự giải thoát an lành sẽ thể hiện.

 

Chẳng Do Phỉ Báng Dấy Oán Thân

Sao Tỏ Vô Sinh Từ Nhẫn Lực

 

Trong cuộc sống tu học, người hành giả có phúc duyên lớn sẽ nhận được bài học vô giá. Sự chửi bới phỉ báng đến với người hành giả là một bài học vô giá để chính ngay nơi đó tâm thức đó họ thể hiện sự nhẫn nhục, cái lực sức mạnh của nhẫn nhục nó được đo tính ngay nơi những hành trạng nghịch với người hành giả. Sự nghịch cảnh đến càng cao càng dầy thì sự nhẫn nhục, lực nhẫn nhục sẽ cao dày. Khi người hành giả quán soi, xem nó như những vở kịch giả hợp do tập nghiệp đạo diễn mà thành. Khi người hành giả quán soi theo Trí Bát Nhã rộng lớn soi thấy sự vật giả hợp không thật tướng như trên, thì khi đó họ nhẹ nhàng thoải mái tỉnh giác để “ Tri huyễn tức ly huyễn” và đến một lúc nào đó cái sự tri đó cũng nhẹ nhàng nữa, thì mới chính là vô sinh nhẫn – nhẫn nhục ba la mật.

 

Bồ tát Đề Bà ngày xưa người cảm hóa rất nhiều đệ tử ngoại đạo quy y theo Ngài, nên người ngoại đạo oán hận tìm cách hại người. Một hôm thấy Người đi một mình trong rừng, số người ngoại đạo kia cầm dao đến uy hiếp mổ bụng Người – ngũ tạng lòi ra nhưng chưa chết. Mặc dù Ngài bị ngoại đạo kia tàn nhẫn đến với Ngài như vậy, nhưng Ngài vẫn với tâm yêu thương nói: “Ta có y bát để chỗ kia ngươi hãy đến lấy, rồi chạy lên núi gấp đi, đi đường núi chứ đừng đi đường bằng, đệ tử của ta chưa được pháp nhẫn sẽ bắt người giải đến quan chịu tội”.

 

Như vậy, ngay nơi câu chuyện này, chúng ta thấy lòng từ nhẫn nhục vô lượng của vị Bồ Tát khi bị người hại mình, mà còn tỉnh táo chỉ cho họ lấy đồ của mình, còn chỉ rất rõ ràng cặn kẽ đường đi nước bước để khỏi bị hại. Ở đây qua câu chuyện này, chúng ta cũng nên nhìn lại sự từ bi nhẫn nhục của mình. Mình hiện nay chỉ vì một chút lợi nhuận nhỏ thôi thì cấu xé, nói này kia ganh ghét đủ thứ Ngã mạn ngã chấp của mình quá lớn. Qua bài này, hãy tự mỗi người chúng ta thử so sánh theo hạnh lành của Ngài Huyền Giác cùng vị Bồ tát kia coi sao? So với nhau để biết chút ít sự tu học con đường tu học hạnh nguyện của mình coi sao. Chứ ngay nơi chúng ta từ ở ngay nơi cái miệng, miệng nói rất tốt nhưng trong lòng rất phức tạp phiền toái hại người. Nếu chúng ta vấp phải những sự hiềm khích không nhẹ nhàng xoa dịu bỏ qua với nhau, thì con đường đi hạnh nguyện tu học của chúng ta có đúng không? Đây là một câu hỏi cùng hình ảnh ý niệm trong bài, cũng rất mong mỗi chúng ta hãy nhìn lại quán soi lại để tiếp tục tu học.

 

Để trở lại câu chuyện trên, khi nghe tin Ngài bị như vậy, đệ tử Ngài chạy đến tức giận, cùng nhiều người rượt đuổi bắt. Nhưng ngay nơi đó Ngài ngăn lại và ân cần hòa nhã dạy đạo “ Lẽ  thực các pháp chính là ở chỗ không có người thọ, không có người hại. Thân ai? Oán ai? Giết ai? Hại ai?”

 

Ngài khai thị ra một số câu hỏi như vậy để nhằm chỉ “ Không có người cũng không có ta”. Ngay nơi câu trả lời khai thị này nó đã thể hiện lên tinh thần Bát Nhã vô ngã, vô pháp, vô tướng để chỉ cho ta cái nhẫn nhục vô sinh.

 

Ngay nơi đây, chúng ta sẽ thấy cái gốc của sự tu hành của một vị Bồ tát kia. Cho thấy không có ta, không có người, thì cũng sẽ không có người hại và cũng không có người bị hại. Mà mà người đã nhìn thấy như vậy, thì người đó đã có cái hằng biết tự tánh Thanh tịnh, mà đã biết được cái hằng biết đó rồi, thì việc hại người hại ta oán hận nhau chỉ là cái sự trả vay nghiệp lực thôi.

 

Qua phẩm này, người hành giả tu theo Mật hạnh Chuẩn Đề rất phù hợp, vì hàng ngày trì niệm tâm thể hiện – Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm lên toàn bề mặt của vạn sự, vạn pháp. Ngay nơi nào? thời gian nào? Thần chú đó cũng có mặt đồng với cái hằng biết đó. Đã đồng với cái hằng biết đó, thì vạn pháp bình đẳng. Chính những lời phỉ báng khen chê cùng những sự việc nghịch cảnh đến, cũng đều thể hiện: Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm

 

Năm Xưa Nghèo Chưa Thật Nghèo

Năm Nay Nghèo Mới Thật Nghèo

Năm Xưa Nghèo Vẫn Còn Có Đất Cắm Dùi

Năm Nay Nghèo Dùi Cũng Không!

 

Hương Nghiêm Thiền Sư

 

 

Cư sĩ Thanh Hùng

Pháp hiệu: TC Trí

Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

COMMENTS

WORDPRESS: 2
  • comment-avatar

    Năm Xưa Nghèo Vẫn Còn Có Đất Cắm Dùi

    Năm Nay Nghèo Dùi Cũng Không! Câu thơ này của thiền sư Hương Nghiêm cũng giống như ý trên Thầy đã luận giải năm xưa vì còn có cái ngã mới thấy có người nghèo mới có gì sở hữu, nhưng nay thênh thang tâm rỗng rang không còn người không còn ta ở đó thì đâu có chúng sinh thọ giả mà khởi lên sự nghèo hay không nghèo sự thị phi, phỉ báng chê bai cũng vậy. Đó là những đại pháp bảo đưa chúng sinh đến bờ giác ngộ giải thoát.
    Thầy luôn là sự khai thị chỉ bày cho chúng sinh những lời lẽ chân thật của sự sống không có sự nặng nhẹ của đời của đạo, cứ bình thản rõ biết để mà sống.
    Kính lạy Thầy ông lái đò vô sự.
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm

  • comment-avatar

    Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…