Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmCư sĩ Thanh Hùng

THIỀN QUÁN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ QUA CHỨNG ĐẠO CA – Phẩm 5

 

PHẨM 5

Chánh Văn:

Vộ lượng phước vô tổn ích
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mích
Tỉ lai trần kính vị tằng ma
Kim Nhật phân minh tu phẩn tích.

Dịch Nghĩa:

Không tội phước, không thêm bớt
Trong tánh tịch diệt đừng hỏi kiếm
Xưa nay gương bụi chưa từng lau
Đây lúc rõ phân cần biện chắc.

Ở phần này, Đức Huyền giác Ngài nói “Không tội phước, không thêm bớt”. Trong tánh tịch diệt đừng hỏi kiếm. Tại sao không tội phước? Ta hãy tự hỏi và hãy thật chứng những điều trên cũng như Ngài đã chứng ngộ điều đó. Ngay đây đòi hỏi người hành giả phải chân thật, chứng ngộ mới thấy được điều đó. Nếu không chứng thật được bản tính thanh tịnh của mình mà học đòi. Nói làm những điều trên thì vô cùng nguy hiểm. Chúng ta hãy cẩn thận điều đó.

Khi người hành giả đã liễu ngộ được tất cả các pháp, vạn sự, vạn vật đều không tướng, vô ngã, quán soi tự nhìn thấy các tướng, các pháp đều do sự giả hợp mà có, không có thật thể. Khi chúng ta ngồi tĩnh tọa niệm chú, hành thiền thì thường thấy những pháp, ý niệm lăng xăng, vọng khởi lên trên đầu. Ngay tức khắc đó, bạn hãy dùng kiếm huệ, một loại trí tuệ sắc bén nhanh chém chúng ra từng mảnh. Tức là hãy quán soi chủng loại vọng niệm đó nó hình thành như thế nào chứ đừng chặt bỏ nó. Thí như khi chúng ta đang ngồi tĩnh tọa, niệm tụng thì một niệm vọng lên. Một câu chuyện lúc trước lại hiện lên. Trong câu chuyện đó, người A chửi mình là đồ chó đẻ. Câu chuyện đó tưởng chừng như đã quên lãng vào quá khứ rồi. Câu chuyện đã trải qua rất lâu, nhưng hôm nay, trong lúc hành thiền, tự nhiên khung cảnh những câu chửi rủa đó lại trở về không thiếu một chữ. Không phải tự nhiên mà nó lại trở về đâu. Mà do sự tĩnh tọa làm cho các duyên bên ngoài ngưng lại. Khi ngưng lại như vậy, do ta điều tiết chưa thông hơi thở hơi uất khí lại làm ta nóng, khí huyết nóng, nhịp tim nhảy bóp nhanh, lượng máu lên não nhiều lần gây ra những làn sóng não tạo nên những cảm giác hồi hộp, nong nóng trong lòng. Cảm giác này y như cảnh cảm giác xưa kia mình bị người A chửi. Thế là nghiệp duyên đó nổi lên. Nghiệp duyên chứa trong tàng thức như là một chuồng ngựa. Mỗi con là một nghiệp duyên. Khi con nào chứng ngảy chồm phóng ra ngoài thì chủng nghiệp đó nó hiện hành. Cảnh xưa cũ – lạc ảnh tử, những ảnh rớt lại bắt đầu đủ duyên sanh ra. Cảnh thuận thì tham đắm chiếm đoạt, cảnh nghịch thì chối bỏ. Khi có cảm xúc tham đắm thì tự những chủng duyên có sẵn trong tàng thức, trong các căn; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý bắt đầu chúng tự duyên duyên với nhau mà tự đạo diễn ra. Và ngay chỗ đó nó có những động lực vô hình, sức mạnh vô hình do duyên nghiệp tạo hình thành nghiệp lực. Cái lực này tác động vào “Khẩu” thì miệng mình mắng chửi tuỳ theo nặng nhẹ mà thốt ra những lời thô tục, độc hại khác nhau. Đó là tạo nghiệp tiếp, nhưng ở giai đoạn này còn nhẹ. Giai đoạn tiếp theo tác động vào “Thân”. Sau khi miệng chửi rủa rồi cảm thấy không thoả mãn lòng tham, sân, si của mình bắt đầu dùng tay đánh đập loạn xạ trong mê lầm (Khi người giận, si mê, tay chân qườ quạng, mê lầm) Giai đoạn tiếp, nếu thoả mãn cơn giận tham, sân, si thì thôi còn không sẽ dùng “ý” tạo tác nghiệp tiếp. Một dòng suy tư mê lầm kéo những gì của mình gom lại như là anh em, cha mẹ, vợ con, dao búa tạo nên thế lực mạnh hơn để thoả mãn lòng tham, sân, si chiếm đoạt và huỷ bỏ. Như vậy, một dòng nghiệp lực dẫy đầy nước mắt và máu cứ tuôn chảy, ánh sáng và trí huệ sẽ lu mờ trong tâm thức của chúng sanh. Đó là nguồn gốc của tội lỗi.

Khi người hành giả hành sâu vào trí huệ bát nhã rốt ráo kia, họ hiểu như vậy rồi, hiểu thật tường tận vì chính họ đã tự hiểu. Thì ngay chỗ đó, trí huệ tự giải thoát của họ thể hiện lên nhìn rõ chân tướng của mọi tội lỗi là một dòng sinh diệt giả tạm do sự chấp ngã, chấp pháp mê lầm. Thấy rất rõ từ vô thuỷ, vô chung đến nay do chấp thân này là thiệt, không biết là do đất, nước, gió, lửa  tứ đại hợp thành. Từng giờ từng phút bốn cái này nó sinh khắc mà diệt. Cái thân tứ đại kia trong từng giờ, từng phút đang sinh diệt. Có nghĩa là hằng ngày tim, phổi, lục phủ, ngũ tạng đang yếu dần, tế bào máu huyết, các chất nó đang phản ứng hoá học liên tục biến đổi. Thân này, máu thịt này, cảm xúc này nó phải suỵ xuống để hình thành ở thể mới. Thân ta, cuộc sống ta đang sống thấp thoải mỏng manh trước thềm sinh tử.

Thân ta như thế đó, vạn pháp xunh quanh ta như thế, một dòng sinh diệt lẩn quẩn luôn mang chúng sanh vào sự khổ đau, tội lỗi.

Qua sự sanh lão, bệnh tử đó, thái tử Thái tử Sĩ Đạt ta, người đã đi dạo bốn cửa thành. Ngài quán sâu vào đó, vào cái cội gốc của tội lỗi. Với một ngày trong sáng, ngài đã thực sự sống lại, sống trên cái sinh diệt, sống trên cái tội lỗi lẫn quẩn đó mà không ô nhiễm. Ngài đã thấy, chứng ngộ được tự tánh thanh tịnh. Ngay chỗ đó không một vật nào, không một pháp nào. Trong cái sinh diệt trùng trùng duyên khởi đó, có một cái không bao giờ sinh diệt, không bao giờ mất. Nó đã hiện hữu muôn đời. Ngay chỗ sinh đó, nó hiện hữu tích tắc ngay đó. Và ngay chỗ đó “chỉ biết thôi” hoàn toàn buông xả. Rồi ngay chỗ diệt đó tức khắc nó cũng chỉ biết thôi thì ở hai khía cạnh sinh và diệt đều hằng có cái biết đó thì tội chướng chỉ là giả danh, thiện cũng chỉ là giả danh thôi. Vì muôn pháp không thật tướng chỉ có “biết” trong vô thủy, vô chung đến nay. Người hành giả tu Mật chú chuẩn đề dễ tùy thuận vào tự tánh thanh tịnh này. Người hành giả trì niệm chuyên sâu vào trong nội thức, trong đời sống tưởng đi sâu vào trong “căn thức”. Họ ngồi trì niệm quán soi từng vọng niệm lăng xăng. Mới ban đầu họ kích thích, tác động, vọng giác cho tất cả các giác niệm biết vào trong vọng niệm. Sau đó, tự nhiên tất cả các vọng niệm nổi lên “ngay chỗ đó” biết “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”.

Cứ như vậy, khi ta tu tập hằng giờ, hằng phút như vậy, tỉnh giác biết thần chú chuẩn đề sẽ khắp trong mọi vọng niệm thiện, ác. Lúc đó thì không còn có vọng chơn gì cả, chỉ còn một pháp duy nhất là biết thần chú “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Ngay chỗ đây, nếu chuyên về Thiền hiển giáo, ta khó phân biệt được cái tánh tự thanh tịnh của tự tánh, khó phân biệt đựơc cái biết phân biệt ở đây. Vì vào đây cũng chỉ tạm gọi là vào chứ thật tế ngay đây không có một pháp nào, một niệm tác động vọng khởi cả. Người hành giả mật chú Chuẩn đề ngay đó họ bỏ tất cả hết, chỉ nghe một nội thức “úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” vang lên nhưng rất vi tế, nhỏ nhiệm. Nhưng ngay đây, càng lúc càng kiên nhẫn nghe biết “úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Cứ niệm tu từ từ như vậy để nuôi cái thánh thai “hằng biết”, để một ngày, một thời gian, không gian nào đó quên luôn cả cái biết đó. Lúc đó mới là cái hằng biết.

Sự huân tu của hiển và mật như vậy cho nên nó đem lại sự lợi ích rất lớn cho người tu. Ngay đây, khi đã trở về liễu nhập với cái hằng biết tự bao giờ. Thì trước mặt, trong tâm vạn pháp đều là cái hằng biết, không còn thân ta ngã chấp, không còn pháp chấp thì tội chướng cũng đâu có. Tội chướng kia cũng do giả duyên hợp thành mà thôi.

Không tội phước, không thêm bớt,
Trong tánh tịch diệt đừng hỏi kiếm.
Xưa nay gương bụi chữa từng lau,
Đây lúc rõ phân cần chắc

Cư Sĩ Thanh Hùng
Pháp Hiệu Chánh Trí

COMMENTS

WORDPRESS: 1
  • comment-avatar

    “Sự huân tu của hiển và mật như vậy cho nên nó đem lại sự lợi ích rất lớn cho người tu. Ngay đây, khi đã trở về liễu nhập với cái hằng biết tự bao giờ. Thì trước mặt, trong tâm vạn pháp đều là cái hằng biết, không còn thân ta ngã chấp, không còn pháp chấp thì tội chướng cũng đâu có. Tội chướng kia cũng do giả duyên hợp thành mà thôi”

    Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm