PHẨM 3
Chánh Văn:
Chứng thật vô tướng, vô nhân pháp
Sát na diệt khước A tỳ nghiệp
Nhược tướng vọng ngữ cuồng chúng sinh
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp
Dịch Nghĩa:
Chứng thật tướng, không nhân pháp
Sát na dứt sạch A tỳ nghiệp
Nếu đem lời vọng dối chúng sinh
Tội rút lưỡi tự mang trần kiếp
Trong giáo lý của Đức Phật thường hay nói đến sự duyên hợp giả có, tất cả vạn sự, vạn vật đều là do sự duyên hợp mà hình thành. Rồi cũng có sự duyên hợp mà nó diệt. Ta thấy nó tan rã lan tỏa tưởng như là nó mất. Nhưng thật tế nó đang duyên hợp ở mọi hình thức khác nhau.
Trong tướng duyên hợp giả có đó, mỗi cá nhân, sự vật đều không có thật thể. Cho nên, đức phật bảo rằng “Không tướng”. Sự duyên hợp đó nó trùng trùng duyên khởi, mỗi cá nhân sự vật, sự kiện đều có một sự giả tạo. Có một tác giả đạo diễn riêng, nó hình thành nên muôn sắc màu khác nhau. Trong sự trùng trùng duyên khởi, giả hợp đó, ta đi đâu để tìm cái thật tướng nó đây? Khi bắt gặp nó mới gọi là sự chứng thật. Luôn cả sự chứng thật đó cũng do sự giả hợp mà ra. Vậy một lần nữa thật tướng ở đâu, là gì? Ngay đây Ngài Huyền giác bảo rằng: “Chứng thật tướng, không nhân pháp. Sát na dứt sạch A Tỳ Nghiệp”.
Trong cuộc sống, hằng ngày trong ta đều do sự tác tạo của nghiệp duyên mà có cả. Do chấp cái thật, có ngã của mình. Khi đã có sự chấp ngã như vậy thì có trong ngoài, ngã và ngã sở. Từ đó, thế giới tâm thức hình thành, thề giới vạn hữu thể hiện ra. Cả một Vũ trụ tâm linh cùng vạn vật, vạn pháp. Như vậy đó, đều do cái “Ngã chấp” của ta cả, mê mờ chấp thật có tất cả “Ngã sở”, có ta, có người. Thì ngay đó, sắc nó hình thành che lấp. Từ đó, ta bị hạn chế bởi sắc ấm mê mờ, chấp giữ. Khi chúng có danh xưng là đẹp, là tốt, thiện, vui, mê mờ, chối bỏ chúng khi chúng có một biệt danh xưng là xấu, bất thiện, khổ nã. Khi sắc ngã chúng ta mang nặng dính mắc vào cái hình danh sắc tướng đó rồi. Ngay đó, cảm thọ, tưởng uẩn thể hiện lên. Trong cái tốt nó sẽ giả tạo, đạo diễn nên những ảnh hiện, hình danh, kéo tất cả những cảm thọ, tưởng từ quá khứ về để đối chọi, so sánh, phân biệt, tham, chấp, tham cầu những cái tốt, cái thiện, si mê, những cái có cảm xúc thọ tưởng với mình. Nếu không được thì sân hận sẽ dẫy đầy. Ngược lại được thì si mê, vui vẻ, ngã chấp lẫy lừng. Một chuỗi dài vô tận chấp như thế trong quá khứ, hiện tại, vị lai làm cho trầm luân (Một sự luân chuyển vòng trong qua các vọng niệm, giả tướng trên).Những vọng niệm, ngã chấp trên khiến cho ta có “Giả tướng lẫy lừng nhân pháp” mang chúng ta đi trong khổ não.
Hôm nay, ngài Huyền giác đã chứng thật tướng, ngài đã thố lộ: “Chứng thật tướng, không nhân pháp”. Đó là đường đến sự an lành, chân hạnh phúc. Con đường đi đó, người hành giả phải biết tất cả những sự vật, vạn pháp, giả hợp như trên. Biết bằng sự quán soi trí bát nhã, nhìn thấy liễu ngộ sự giả hợp từ ngay cái “Ngã chấp” của mình đến “Ngã sở”, vạn sự vạn pháp không có thật thể. Khi người hành giả đã giải ngộ như vậy thì từng bước, từng bước, từng cái biết giác niệm, biết cái giác niệm đó ở từng vọng niệm, “Tri huyễn tức ly huyễn”. Đó là con đường thể nhập, ung dung, tự tại trong khổ đau, thiện ác. Mỗi vọng niệm đều có cái biết nào khác, đâu còn cái niệm nào khác: “Không nhân pháp”. Cái hằng biết đó tạm mượn là “thân ta” nhưng thật tướng không có cái biết đó nữa, không ta, không người, không thời gian nhưng “Như lai”.
Ngái Huyền giác đã chứng ngộ ở đó ngài mới viết lên những lời trên trong chứng đạo ca, “Bài ca chứng đạo”. Đây là một tác phẩm tu chứng của Ngài, ngài viết lại, tạm mượn danh tự hình danh sắc tướng thể hiện ra. Cho nên, người có tâm đạo hãy lấy những gì đang có ở đây để thực hành tu học hầu một ngày nào đó liễu đạo chứ đây không phải là một tác phẩm viết ra để coi đó mà lý luận phải trái. Đạo không nằm ở sự lý luận, văn tự. Khi đã thật sự sống chân thật. Rồi thì đời sống của mình là Đạo. Mỗi hành trạng đều là đạo cả. Hãy học đi rồi tự rũ bỏ xuống, bỏ tất cả đề được tất cả. Cả Vũ trụ bao la sao ta lại ngu muội, chấp giữ, sở hữu một ngôi nhà, một ngọn núi. Khi chấp giữ ta đã dính mắc ở đó rồi. Hãy nhìn thấy nó, không nắm giữ thì ta sẽ sở hữu làm chủ cả không gian vô tận. Muốn đi, muốn ở, muốn đến, tự do, tự tại “đó là như lai”. Cái biết không bị ngăn che nó được thông. Từ đó muôn nẻo, muôn nơi đó là “Thần thông”. Vậy, đã gọi là Thông thì không bị bịt, giữ. Nếu chúng ta có cái đó thì chỗ nào gọi là sanh, chỗ nào gọi là tử. Ai khổ đau, ai vui vẻ. Đấy cũng là Thần thông. Có thần thông tự tại như vậy mới tự do đi đến địa ngục, thiên đàng. Khi chúng sanh chấp giữ, vui vẻ, hỉ lạc là Thiên đàng. Mà chúng ta không bị hai cái đó làm che mờ, bịt giữ thì thần thông. Thần thông ấy sẽ đến địa ngục cứu độ chúng sanh, sẽ đến thiên đàng cứu độ giải thoát Thiên đàng. Vì chư Thiên thì cũng có một ngày, thời gian nào đó cũng sẽ suy sụp, phước bảo cũng phải trầm luân thôi.Đây là một ý nghĩa mà Ngài Huyền giác đã thấy: “Sát na dứt sạch A tỳ nghiệp”.
Ngài đã thấy và đã chứng ngộ thật tướng như vậy. Cho nên, ngài viết lời nhắn rằng: “Nếu đem lời vọng dối chúng sinh. Tội rút lưỡi tự mang trần kiếp”.
Ngài đã cam đoan như thế. Thì hôm nay, chúng ta hãy hoan hỉ thể nhập đi, để khỏi phụ lòng Cổ Đức. Hãy đốt ngọn vô tận đăng tiếp tục soi đường cho chúng sinh vạn hữu. Trên đây là sự soi sáng, quán soi trí huệ. Trên văn tự ta thấy cũng dễ nhưng trong sự tu học muôn vàn khó khăn. Để trợ duyên trên bước đường tu học, người hành giả nên lấy “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” làm hành trang độc hành mà tu học. Trong nghiệp thức mênh mang vô bờ bến kia người hành giả rất khó thể nhập vào chơn như thật tướng. Phần đông, chúng ta bị những chướng duyên vi tế, tiềm tàng bên trong. Chúng ta nói thấy biết cái biết hằng có như trên luôn bằng cái lý thôi. Ta tự chấp cái lý sự đó rồi cho đó là “cái biết hằng có”. Chúng ta thật lầm tưởng, nên cứ tu mãi. Càng tu càng thấy ngã chấp dẫy đầy là do ta chấp cái lý mà ra cả. Ở ngay đây, ta hoàn toàn không tỉnh giác nổi. Cho nên, ngay đây Đức Phật bảo rằng chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng thôi, Ở ngay đây, hoàn toàn buông xả cho đến ý niệm, cảm xúc, hành trạng buông xả cũng không còn. Như vậy, ở ngay đây thật là khó, người hành giả ngay đây phải “Vô công dụng đạo”.
Từ những khó khăn trên, người hành giả lần lần tu niệm, trì niệm “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” từng ngày, từng giờ, phút niệm tụng. Niệm tụng như vậy nghe kỹ, thấy kỹ từng âm thanh một. Trong mỗi giác niệm thấy biết kia luôn mang cái hằng biết. Người hành giả cứ như vậy nuôi cái Thánh thai biết “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm”. Đến một ngày nào đó, gió mát, trăng thanh, liễu rũ, hoa rơi buôn lỏng đi vào đời. Vạn vật, vạn pháp “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” cùng ta là một thể chơn tánh, chơn niệm.
Và đến khi đó, người hành giả thoải mái đi vào đời, không còn chướng duyên nào cả. Người và ta như một, vạn pháp cũng không hai. Thiện ác cũng thế. Một hạt cát nhét đầy Vũ trụ, Vũ trụ chỉ là một hạt cát.
“Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm”.
Hôm qua tâm dạ xoa
Sáng nay mặt Bồ tát
Bố tát với dạ xoa
Không cách một đường tơ
Thiền sư Tư Nghiệp
Cư Sĩ Thanh Hùng
Pháp hiệu: TC. Trí
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
COMMENTS
Như Thầy nói: ” Để trợ duyên trên bước đường tu học, người hành giả nên lấy “Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Bộ lâm” làm hành trang độc hành mà tu học. Trong nghiệp thức mênh mang vô bờ bến kia người hành giả rất khó thể nhập vào chơn như thật tướng. Phần đông, chúng ta bị những chướng duyên vi tế, tiềm tàng bên trong. Chúng ta nói thấy biết cái biết hằng có như trên luôn bằng cái lý thôi. Ta tự chấp cái lý sự đó rồi cho đó là “cái biết hằng có”.
Vậy chúng ta thực hành sao? lấy thần chú Chuẩn đề trợ duyên cho người hành giả thể nhập tự tánh chân như. Sự thể nhập mà không thể nhập! là công án của rất nhiều hành giả.
“ Ảo vọng và chân thật chỉ là một con đường,
Vọng tưởng điên đảo cũng là đệ nhất nghĩa.”
– lý đạo của Đức Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Bài pháp là nguồn đạo sâu nhiệm vô bờ bến, từ thời Đức Phật trao truyền dạy đến Chư Tổ Cổ Đức để lại cho thế hệ đời sau và từ pháp chứng của Thầy là một thể đồng nhất. Khi đọc đoạn trích từ lý thiền của Sư Tổ con thấy thật đồng với tư tưởng đạo hạnh của Thầy không khác biệt.
Ngay đây con thấy con còn quá bé nhỏ kém cỏi con chưa thể đủ tầm tư tưởng đủ lý đạo đủ chứng ngộ để xứng đáng được nói lên điều gì từ đó là động lực thúc đẩy con thấy được để thực đi trên con đường đạo hạnh cần phải nương theo sự chỉ dạy của Đức Bổn Sư của mình, cần có người Thầy Minh Sư dẫn đường chỉ lối, chỉ cho người tu trì lần phá vỡ đi cái vô minh ngã chấp, tà kiến từ chân tơ kẽ tóc mà ngay nơi bản tâm con chưa thể đầy đủ phước huệ để hiểu được việc làm, hành động của mình, chỉ thận trọng và ước nguyện vươn lên khỏi định nghiệp, thực thi thôi thì chưa thể đủ để nuôi dưỡng một tâm đạo lớn. Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Ở Thầy là dòng trí huệ soi sáng chỉ dạy viên mật xuyên suốt không ngừng truyền trao đạo pháp và sự miệt mài nhiệt huyết thực hiện công phu tu hành không sao nhãng của người đệ tử là sự song hành khế hợp đồng tâm hiệp lực. Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường