Chánh văn:
Bất khả hủy, bất khả tán,
Thể nhược hư không vô nhải ngạn.
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên.
Mích tức tri quân bất nhã kiến.
Dịch:
Chê chẳng được, khen chẳng được,
Thế tợ hư không bờ mé dứt.
Chẳng rời trước mắt thường lặng trong,
Còn tìm tức biết anh mờ mịt.
Ở bài này đức Huyền Giác nói đến tính linh giác hằng biết. Cũng chỉ mượn văn tự để tạm chỉ thôi, chứ thật tế khen chẳng được, chê chẳng được. Tất cả những ý niệm ngôn ngữ đều không động đến tính linh giác đó. Khi tu thiền mật định cũng không thấy ở đó nữa. Thấy mà còn không thấy được thì nói làm sao cho được. Ngay đó tất cả sự việc vạn niệm vạn pháp thấy có tướng động tịnh, còn ngay nơi tánh thanh tịnh đó không hề có sự động tịnh gì cả. Nó như hư không kia tất cả sự vật, vạn tướng, vạn niệm thấy có tới lui động niệm do sự duyên hợp mà thành nên tướng kia. Chứ bản chất hư không không bao giờ có động tịnh gì cả. Vì nó đã thường hằng không chờ một duyên nào tác động đến, không nhờ một duyên nào làm cho nó tịnh cả.
Khi chúng ta tác pháp làm tất cả thì cũng chỉ trong phạm vi của sự vọng tưởng điên đảo. Hư không kia còn có tính như thế, còn tánh linh giác thanh tịnh kia mặc dù không động không tịnh. Nhưng có cái tạm gọi là diệu hữu, cái diệu hữu này là nói đến sự sinh sống thực tại ngay chỗ các pháp thể hiện lên. Mỗi pháp khi chúng thể hiện lên, hay nói chúng sinh diệt lên nhau. Ngay nơi đó cũng đều cá cái hằng biết sẵn có nơi nó. Cái biết này nó thường hằng không dừng trụ ở một pháp duyên nào cả. Nó rất ngộ là khi tác động, hay không tác động để ý vào nó, thì chỉ trở thành sự vọng tưởng, một sản phẩm bắt buộc, có khi để ý nó. Cho nên văn tự ngữ ngôn chê khen không đến không dính gì với nó cả.
Thế tợ hư không bờ mé dứt.
Chẳng rời trước mắt thường lặng trong,
Còn tìm tức biết anh mờ mịt.
Thật tế nó là như vậy: “ Chẳng rời trước mắt thường lặng trong”. Nó ở trước mắt mọi duyên mọi vạn niệm, nhưng không ai tác động vào nó, không văn tự ngữ ngôn tác động vào nó được. Thế mới nói rằng “ Thường lặng trong” một sự lặng trong thật bí hiểm, không giãi bày, không giải tỏ được.
Ngay đây người hành giả phải biết cái sự lặng trong của nó, phải nhẫn nại mà xem hoa vàng, mưa phùn, suối reo, chim hót, nhảy múa động dụng. Rồi bất động tĩnh lặng cứ cho nó cuốn nhè nhè, cuốn đi mạnh bạo. Trong thác đổ mưa ngày, ca hát quyét đường những hạt bụi bay. Người hành giả ở đây cứ yên lòng niệm : Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Rồi để gió cuốn đi câu chú đó, để tiếng chim kêu thể hiện nó thần chú. Rồi cứ để ngày đêm, sáng tối mặt trời mọc, mặt trăng sáng lan tỏa ánh sáng: “ Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm”. Có như thế ngay đó chúng ta mới thực tại chứng ngộ cái “ tôi” ngay nơi vạn niệm đó. Thấy cái tôi ấy lúc đó mới thoát ra không còn sự ràng buộc, thể hiện cái tôi của mật chú Chuẩn Đề. Để cái biết mật chú ngay nơi sự thai nghén tư tưởng, thai nghén nó sẽ nở hoa phát sáng trong từng nụ cười ánh mắt của trẻ thơ, bà già, ông già. Của sự sáng lên của mặt trời. Ngay nơi đó không còn thấy là mặt trời, không còn thấy nụ cười vầng thơ nữa, mà Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm nó đã thành hình trong thai tạng của vạn vật, vạn pháp. Thai tạng đó nó có trong từng vạn niệm, vạn pháp, một nụ cười tiếng khóc, một cánh rừng hoang giã, rừng núi suối reo. Tất cả của những sự uốn khúc ảo giác trong tâm ta, những nhịp tim nghe nó từ trong đáy lòng đó nó phát ra mật chú.
Bài này viết ra để tự mọi cá nhân hãy tự khế hợp mình với vạn sự, vạn vật với mật chú, để cuối cùng mật chú đó sẽ là thai tạng trong vạn pháp. Ngay nơi đây người hành giả hãy tự chứng ngộ chân ngôn mật pháp. Mật chú nó có trong từng vạn pháp thể hiện ra từng hình tướng, từng cảm giác, cảm thọ. Nó sẽ là sức sống năng nổ, là động lực thúc đẩy vạn pháp sống lại trở về với tánh linh hằng có. Một sự khế hợp bí mật. Vì tất cả ngôn ngữ, mọi người, trời đất, thánh thần cũng không thấy được sự khế hợp đó. Mật chú tánh linh hằng có không khác, luôn luôn lúc ào cũng có tánh linh mật chú trong vạn niệm, vạn pháp, luôn nói lên sự sống thực tại giải thoát không gì ngăn cản nó. Vì nó không bao giờ đụng chạm tới ai, và ai cũng chưa từng đụng chạm tới nó. Mật chú chân ngôn hằng có đức Phật, chư Thánh, chúng sanh đồng có nơi đó. Một thai tạng vô hình bất biến. Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là một người đại trí, một loại trí huệ siêu việt. Trí huệ này nó cũng đã từng có sẵn trong loài người và chư thiên. Ngài đã thấy chứng ngộ, Ngài tạo ra rất nhiều phương tiện để độ sanh. Thiền, Tịnh, Mật, 3 tông này Ngài lấy sử dụng đó trong cái tông không tướng, vô tướng, vô niệm để hình thành nên 3 tông đó. Nó được sống lại do sự thai tạng trong các pháp. Sau khi đức Như lai diệt độ, thai tạng hằng có thanh tịnh đó là Như lai, Ứng cúng chánh biến tri. Thật vi diệu.
“ Muốn khỏi luân hồi không đâu bằng cầu Phật – Nếu muốn cầu Phật, thì Phật tức tâm.
Tâm nào tìm chi cho xa, đâu có lìa thân này. Sắc thân là giả, có sanh có diệt. Chân tâm như hư không, chẳng đoạn chẳng biến. Cho nên nói: Hài cốt vỡ tan trở về lửa gió, một vật trường linh che trùm trời đất”
Chân Tâm Trực Thuyết.
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm
Om Ma Ni Pad Mê Hum
Cư sĩ Thanh Hùng
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
NHƯ LAI THIỀN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ UẾ TÍCH
COMMENTS
Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…
Nam Mô Như Lai Thiền Mật Chú Chuẩn Đề Uế Tích
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Tôn Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm