Chánh văn:
Tâm thị căn, pháp thị trần,
Lưỡng chủng do như cảnh thượng ngân.
Ngân cấu tận trừ quang thủy hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân
Dịch:
Tâm là căn, pháp ấy trần
Cả hai như vết dính trên gương.
Vết nhơ trừ sạch ánh sáng hiện
Tâm pháp cùng quên tánh tức chân.
Ở đây sư Huyền Giác nói tâm là căn, pháp là trần. Mà tâm là sao? Đức Lục tổ Hụê Năng định nghĩa tâm: “ Có cả thảy sự vật là tâm, ly cả thảy sự việc là tánh”. Có cả thảy sự vật là vì mượn nói cái tâm hay sinh ra cả thảy pháp. Pháp nào, niệm nào cũng từ tâm ấy sinh. Mà pháp nào là trần, là tất cả sự duyên ý niệm sự vật. Tâm ấy sinh ra là do sự vật pháp, cho nên Ngài gọi là pháp trần. Khi ta đã tỉnh giác nhìn thấy như vậy rồi thì hãy quán soi từng sự vật, pháp, ý niệm. Tất cả chúng cũng chỉ là duyên hợp mà có thôi. Do nhiều thứ hợp thành một huyễn tướng, nó không có thật thể, cho nên gọi là không. Từ các tướng chúng là duyên hợp, cho nên cũng chỉ là pháp tạm bợ không thật có, do những sự vọng tưởng không thật mà thành hình, nên ngài Huyền Giác gọi là :
Cả hai như vết dính trên gương.
Vết nhơ trừ sạch ánh sáng hiện
Tâm pháp cùng quên tánh tức chân.
Do sự duyên hợp vọng tưởng giả có nên cũng là những vết nhơ trên gương, Ngài ví cái tánh thanh tịnh của mình như thể của gương. Mà thể của gương thì không phải những hình ảnh dài, ngắn, đen, đỏ…trên gương mà cũng không phải là cái gương. Nó không hình tướng gì cả, nhưng nó chuyên chở ở trên những hình ảnh vạn pháp, ý niệm trên gương. Từ đó nếu làm mất tất những hình ảnh trên gương, thì thể của gương sẽ sáng ra. Cái tâm tánh của con người cũng vậy. Cái hình ảnh, ý niệm, vạn pháp thấy có đến đi, có người có ta là do sự phân biệt vọng niệm. Chứ thật thể ý niệm, bản thể vi diệu sáng toả, thì không một vật dính trên đó. Mặc dù không hình tướng, nhưng nó che chở chuyên chở vạn vật, vạn pháp. Cũng như hư không rộng lớn trên. Vạn sự vạn vật ý niệm rất nhiều vô số kể, nhưng đâu có che bít được hư không. Nó không có hình tướng, nhưng khi mỗi niệm lặng mất, thì hư không hiển bày. Rồi bỏ hư không kia ra nữa, thì lý hư không hiển bày. Bỏ luôn lý hư không đó nữa, bỏ luôn cái tánh bỏ đó nữa, thì ai ở đó để bỏ và nhận hư không kia.
Hiểu như vậy để bỏ nhoà cái hiểu biết đó. Hãy an lạc Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Liệu hạt sương có cảm thấy hay kinh nghiệm sự sống động nào đó bên trong không, khi lần đầu tiên nó tan vào trong đại Dương?
Cư sĩ Thanh Hùng
Pháp hiệu: TC,Trí
Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường
NHƯ LAI THIỀN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ UẾ TÍCH
COMMENTS
Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Nam Mô Bổn Sư Kim Cang Kiết Tường
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.Bộ Lâm
” Tâm thị căn, Pháp thị trần” ở đây Thầy đã vì chúng ta mà mở toang cánh cửa Pháp, sự tận tình tỉ mỉ này chúng ta có thấy chăng? Chúng ta sâu sắc hơn một chút ở căn trần. Lúc trước chúng ta thấy căn là: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý. Trần – là những hình ảnh sự vật hiện tượng bên ngoài ma xát thọ cảm trực nhìn, nhận qua căn thô kia.
Nhưng ở đây sự quán sát kỹ lưỡng nơi tâm kia là căn vi tế hơn, qua cảm xúc thọ cảm thấy biết đang lưu hành vận chuyển nơi ý, thức, thọ kia là pháp, rồi sâu hơn nữa ngay cái thấy biết làm thân kia cũng là giả tướng. Thầy chỉ tiếp người hành giả phải thiện xảo trí huệ ở chỗ này để biết rằng chúng cũng chỉ như là bóng trăng in trên mặt nước, hay như là vết dính trên gương. Vì bản chất của Trăng hay Gương là luôn thường hằng sáng tỏ, không cần một vật hay thêm vật để thể hiện tính sáng tỏ đó. Ngay chỗ này người hành giả dụng làm kim chỉ Nam để đi chờ cơ duyên khế hợp mà nhập thể tự tánh.
Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni Pad Me Hum