Web Analytics Made Easy - StatCounter
HomeTiêu ĐiểmCư sĩ Thanh Hùng

THIỀN QUÁN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ QUA CHỨNG ĐẠO CA- PHẨM 56

Chánh văn:

 

Tại dục hành thiền tri kiến lực,

Hoa trung sinh liên chúng bất hoại.

Dõng trí phạm trọng ngộ vô sinh,

Tảo thời thành Phật ư kim tại.

 

Dịch:

 

Tại dục hành thiền sức thấy biết,

Sen vẫn nở tươi trong lửa cháy.

Dõng thí phạm trọng ngộ vô sinh,

Sớm đà thành Phật nay còn đấy.

 

Đức Huyền Giác nói nơi cõi dục, giữa muôn ngàn duyên thuận nghịch khác nhau mà tâm mình tỉnh giác không bị cuốn theo một sự kiện một niệm nào, vẫn sống như người thường vạn niệm qua đi như một nhân chứng thật sự. Biết tất cả nhưng không bị đắm chìm dính mắc nơi đấy. Sống được như vậy là do trí Bát nhã, sự biết soi sáng vạn niệm như mặt trăng, mặt trời sáng ở vật nào cũng lợi ích. Nhưng trăng mặt trời không dính một vật nào cả. Sức sáng biết đó như Hoa sen trong lửa vẫn cháy đỏ, cũng như loài sen trong bùn không bị bùn làm nhơ. Vì nhơ làm sao được cái biết của chúng sinh. Cái biết đó nó có từ muôn thuở, không có một vật nào khởi tác động vào cái biết đó cả. Trong địa ngục cái biết đó cũng sáng, trong cực lạc cái biết đó vẫn sáng. Ánh trăng, mây nước, buồn, khóc, tóc bay, ngựa chạy, kèn kêu, trống vang, bình minh, ngủ, ăn cơm, mặc áo…Ở đâu cũng có cái biết đó, nó không có bị một vật gì nhiễm cả.

 

Trên lý thuyết ngôn từ chúng ta biết như vậy, nhưng cũng như bẹ chuối lột đi từng cái một. Ngay đây nói dễ nhưng khó. Ở đây chỉ mượn Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Niệm từng ngày, từng giờ, từng phút trong nội thức vang lên ý niệm Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. Khi vang lên ngay ấy có một cái ( liễu biết) hiện hành, mượn hiện hành nhưng nó đã từng có sẵn. Ở đây mượn dùng chữ “ Liễu” để hiểu ngay “ chứng ngộ” liền ngay ý niệm đó. Còn nếu ngay đó chúng ta còn đắn đo suy nghĩ thì thuộc tình thức phân biệt. Đã phân biệt thì liền đó vạn niệm nổi lên. Vì tất cả chủng tử nghiệp chướng lâu đời nó liền nổi lên để chúng ta phân biệt gốc sanh tử là đó chu lưu mãi không ngoài vòng nghiệp chướng. Khi chúng ta phân biệt tức ngay đó chúng ta chấp ngã  và ngã sở. Vì có ngã trụ nơi đó, mới nhân muôn duyên mà phân biệt. Khi phân biệt thì hoàn toàn sống trên nền tảng vọng tưởng cả. Vì tất cả vạn niệm thiện ác đều do từ bên ngoài do chúng ta học từ người này, học từ người khác đúc kết kinh nghiệm nhiều đời nhiều kiếp mà tâm ta tự đạo diễn sanh tiếp, chấp vào đó để thọ cảm nghiệp mới. Tất cả đều là sự vọng tưởng giả hợp không thật, nó do từ nhiều nguồn suy tư cộng với những cái tự có của mình ( chủng nghiệp), cộng nghiệp, riêng nghiệp, mà tạo thành một ý niệm. Mà sản phẩm của nó là đúng sai đau khổ thiện ác. Tất cả do tâm chúng ta mà ra cả. Nếu ta tỉnh giác muôn duyên ngưng, nếu còn chạy theo vọng tưởng thì cứ mãi lôi cuốn trong sinh tử luân hồi.

 

Tu là đòi hỏi ở chính nơi mình phải tỉnh giác nghiệp mình tạo, tự giải nghiệp của mình. Có người tu bảo rằng phải nghe theo chư vị dạy bảo chỉ điểm cho. Vậy chư vị là ai? Ở đâu? Cứ mãi buông lung chạy theo những ảo giác ảo ảnh. Muốn tạo những thắng duyên, thấy những quốc độ chư Thiên, chư Thánh là phải chuyên tâm tu học quay trở về với phương pháp tu học của mình niệm phật, niệm chú. Phải luôn lúc nào cũng tỉnh giác theo cái giác niệm trên. Phải biết từng ý niệm Nam mô A Di Đà Phật, phải biết từng chữ trong chú pháp của mình, có như vậy thân tâm an lạc mới tỉnh thấy được quốc độ chư Thiên, Thánh chúng. Thân tâm an lạc nói như thế chứ thật tế thân chúng ta không an lạc chút nào cả. Vì luôn phải để ý theo sự thị phi, phải trái của ngoại duyên, lòng mình tâm mình vì chuyện ngoại duyên chuyện người khác mà bấn loạn, chộn rộn, tim đập thần kinh bấn loạn không yên. Thân tâm như vậy chư vị nào về dạy cho biết điều này điều nọ. Trên thế gian này rất nhiều người tỉnh giác an lạc chư vị phải dạy cho những người đó chứ, ở không đâu đi dạy chỉ bảo cho kẻ thị phi, trí huệ không ra gì. Khi chúng ta mở miệng ra phân biệt chuyện thị phi của người, của ngoại duyên. Thì ngay nơi  tâm của mình đã có những hình ảnh, ý niệm xấu ở đó. Phải có những chủng tử hình ảnh đó tâm mới bám díu vào mà khởi phân biệt. Cho nên người xưa mới bảo rằng: “ Ngậm máu phun người dơ miệng mình”.

 

Đó là một phần trong cõi dục mà chúng ta, tánh ấy đều có. Cho nên trong cõi dục ấy là tỉnh giác thì cũng như hoa sen trong lửa. Giữa muôn trùng lửa cháy đó mà sen vẫn mọc. Lòng dục vọng ( lửa đốt) nóng giận, dục, có thiện ác, cũng lòng nóng như lửa. Vì khi ấy tim ta đều đập nhanh, ham thích thiện ác vẫn là dục. Cho nên chư vị Thiền sư bảo: Một cái mạt vàng vào mắt cũng khó chịu. Trong thế gian này vạn niệm luôn lăng tăng thuận nghịch, thiện ác từng giờ, từng phút đeo đẳng. Chúng ta phải tự cùng nhau tỉnh giác tu học, phải khéo trong đường tu, phải tỉnh giác từng giờ phút. Biết tất cả vọng niệm lăng xăng qua lại, biết rõ chúng cũng như người chủ nhà thấy người ăn trộm vào nhà liền bảo ăn trộm. Thì ngay nơi đó người trộm kia liền đi. Tỉnh giác là biết ngay như vậy chứ không cần phải nắm, bỏ gì cả. Vì niết bàn cũng là danh tự ngữ ngôn sự chứng ngộ trong tâm an lạc mới là thật. Mà thân tâm an lạc phải tỉnh giác một cách thiện xảo, và tội chướng kia cũng tánh không.

 

Dõng thí phạm trọng ngộ vô sinh,

Sớm đà thành Phật nay còn đấy.

 

 

Khi xưa Tỳ Kheo Dõng Thí phạm tội, ông ta tự thanh tịnh ngay tâm mình. Ông lấy 3 ý của mình treo trên cây tích trượng la lớn lên: “ Tôi đã phạm tội trọng, ai vì tôi sám hối?” La như vậy rồi Ngài đến gặp Tôn giả Tỳ Cúc Đa La trình bày lại sự sám hối của mình.

 

Tôn giả bảo: “ Suy tìm tánh tội trọn không thể được”. Xét cho cùng tánh tội kia cũng là giả hợp huyễn có, nó vốn không có thật. Như vậy tội tánh kia ở chỗ nào? Ngài Dõng Thí nghe xong đại ngộ, liền qua nơi thế giới Phương đông thành Đẳng giác, hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai.

 

Xin trích trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư nói: Nếu thấy tự tâm là Phật, thì chẳng ở chỗ cạo bỏ râu tóc cư sĩ cũng là Phật”.

 

Hỏi: “ Cư sĩ có vợ con, dâm dục chẳng trừ, y cứ vào đâu mà được thành Phật:

 

Đáp: “ Chỉ nói thấy tánh, chẳng nói dâm dục. Chỉ vì chẳng thấy tánh. Nếu được thấy tánh thì dâm dục xưa nay là rỗng lặng, tự nhiên đoạn trừ cũng chẳng ưa đắm, dẫu có dư tập chẳng thể tự làm hại. Tại sao? Vì tánh vốn thanh tịnh, tuy ở trong xác thân năm uẩn mà tánh ấy xưa nay thanh tịnh, nhiễm ô chẳng được”.

 

Ở đây chủ yếu là thấy tánh vô sinh.Ngược lại vừa động niệm thì rời trong sinh tử. Ngay đây tự tỉnh giác lấy mình không ai giúp được, không ai biết thế điều đó cho mình cả. Ở ngay đây phải thực tế quay về với chính mình để tu chứ không thể nói bằng lời được.

 

Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm

 

Cư sĩ Thanh Hùng

Mật tông hiệu: Kim Cang Kiết Tường

Pháp hiệu: TC,Trí

NHƯ LAI THIỀN MẬT CHÚ CHUẨN ĐỀ UẾ TÍCH 

COMMENTS

WORDPRESS: 2
  • comment-avatar

    Úm Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha Bộ lâm. Om ma ni pad mê hum. Úm A Hùm…

  • comment-avatar

    Mỗi mỗi bài mà Thầy đưa ra đều là những tinh yếu cho người hành giả nương vào lý giải thoát đó mà tu học. Hầu như tất cả chúng ta cho dù nói liễu hiểu đại ý giáo lý giải thoát nhưng sâu thẳm nơi tâm luôn có những sự thắc mắc nghi ngờ rằng bản thân căn cơ như thế, như vậy thì có tu đặng chăng? Tổ sư nói: Nếu thấy tự tâm là Phật, thì chẳng ở chỗ cạo bỏ râu tóc cư sĩ cũng là Phật”.
    Hỏi: “ Cư sĩ có vợ con, dâm dục chẳng trừ, y cứ vào đâu mà được thành Phật?
    Đáp: “ Chỉ nói thấy tánh, chẳng nói dâm dục. Chỉ vì chẳng thấy tánh. Nếu được thấy tánh thì dâm dục xưa nay là rỗng lặng, tự nhiên đoạn trừ cũng chẳng ưa đắm, dẫu có dư tập chẳng thể tự làm hại. Tại sao? Vì tánh vốn thanh tịnh, tuy ở trong xác thân năm uẩn mà tánh ấy xưa nay thanh tịnh, nhiễm ô chẳng được”.

    Chúng ta lầm chấp là do thấy thân là thật cho nên sanh muôn tình thức thấy tội, không tội. Nhưng ở đây tự thể tánh ấy vốn xưa nay không sanh không diệt thì làm sao đắm nhiễm, làm sao tự hại. Cho nên không luận ở chỗ bỏ râu tóc. Cư sĩ cũng là Phật. Nói như thế không có nghĩa rằng quí vị tự nói để rồi phóng tâm. Biết thế mà muôn phần tinh cần hơn quay về nơi mình để mà tu chứ không phải là lời nói.

    Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm – Om Ma Ni Padme Hum